Ngày
định mệnh thay đổi thế giới
Chuyến thăm Khu
Tưởng niệm và Bảo tàng 11/9 tại thành phố New York đã để lại trong lòng chúng tôi
nhiều cảm xúc và suy tư. Thật khó để hình dung siêu cường Hoa Kỳ, quốc gia chi
phối trật tự hệ thống quan hệ quốc tế lại bị tấn công một cách tàn bạo vào những
biểu tượng sức mạnh kinh tế, chính trị và quân sự của mình. Theo ý kiến cá nhân
tôi, ngày 11 tháng 9 năm 2001 không chỉ là một vết sẹo lớn đau thương trong lịch
sử nước Mỹ mà còn là một bước ngoặt thay đổi cục diện đã định hình trên thế giới
từ năm 1991 sau khi Liên Xô sụp đổ.
Các con tôi
có hỏi sau khi xem một đoạn video tổng quát vụ khủng bố, điều gì đã dẫn đến thảm
kịch 11/9? Một câu hỏi rất khó trả lời. Mặc dầu tôi đã từng dành nhiều thời
gian chuẩn bị viết luận văn về đề tài khủng bố vào năm 2002; đã từng đọc hàng
chục cuốn sách chuyên sâu trong ngoài nước và hàng trăm bài báo, tạp chí để hoàn
thành tác phẩm mang tính học thuật thời sự này. Có thể nói là một người có nghề.
Vậy mà sau một buổi sáng thăm Khu Tưởng niệm và Bảo tàng với 10.000 hiện vật, 500
giờ chiếu phim ảnh và các video sống động (ngoài ra còn có 1900 câu chuyện chép
tay và 2100 tài liệu lưu trữ trong bảo tang), tôi vẫn không thể trả lời ngay được
câu hỏi tưởng như đơn giản. Cho đến khi mọi người trong gia đình ra về với một
tâm trạng nặng nề tôi mới trả lời, một trong những nguyên nhân dẫn đến thảm kịch
là do chính nước Mỹ gây ra, một nước Mỹ bá quyền, ngạo mạn áp đặt giá trị dân
chủ nhân quyền khắp thế giới trong đó có Trung Đông và đánh giá thấp sức mạnh của
chủ nghĩa khủng bố.
Để hiểu được tại
sao một cuộc tấn công khủng khiếp như vậy có thể xảy ra (bọn khủng bố đã cướp 4
máy bay, trong đó 2 chiếc đâm vào Tòa Tháp đôi, 1 chiếc đâm vào Lầu Năm Góc, 1
chiếc định đâm vào Tòa nhà Quốc hội hoặc Nhà Trắng), chúng ta cần nhìn lại bối
cảnh những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng
bố Hồi giáo cực đoan sau khi Liên Xô sụp đổ, một số nhóm Hồi giáo cực đoan, đặc
biệt là nhóm Al-Qaeda dưới sự lãnh đạo của Osama bin Laden đã nổi lên như một mối
đe dọa toàn cầu. Chúng có tư tưởng chống phương Tây mạnh mẽ, coi sự hiện diện của
Hoa Kỳ ở Trung Đông (đặc biệt là sau Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất) và sự ủng
hộ của Mỹ đối với Israel là những hành động báng bổ thế giới Hồi giáo và cần phải
bị trừng phạt (đáng tiếc Mỹ lại lặp lại điều đó khi ủng hộ Israel tấn công Iran
trong những ngày gần đây).
Al-Qaeda
không phải là một tổ chức khủng bố truyền thống mà là một mạng lưới lỏng lẻo
nhưng có khả năng phối hợp cao. Chúng đã từng thực hiện một số vụ tấn công nhằm
vào những cơ sở vật chất và lợi ích của Hoa Kỳ trước năm 2001, như vụ đánh bom
Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Tanzania, Kenya năm 1998, và vụ tấn công tàu khu trục USS
Cole ở Yemen năm 2000. Tuy nhiên, mức độ nghiêm trọng của những vụ này vẫn chưa
đủ để cảnh báo đầy đủ về quy mô và tham vọng của chúng.
Mặc dù đã có
những cảnh báo về các mối đe dọa khủng bố, hệ thống an ninh hàng không và tình
báo của Hoa Kỳ vẫn còn nhiều lỗ hổng và thiếu sự phối hợp. Các cơ quan tình báo
đã thu thập được một số thông tin rời rạc về âm mưu tấn công nhưng không thể
ghép nối chúng thành một bức tranh hoàn chỉnh. Hơn nữa, việc đánh giá thấp khả
năng của bọn khủng bố trong việc sử dụng máy bay dân dụng làm vũ khí đã tạo điều
kiện cho chúng thực hiện kế hoạch tàn độc này.
Sau Chiến
tranh Lạnh, Hoa Kỳ được coi là siêu cường duy nhất, với sức mạnh quân sự và
kinh tế vượt trội. Điều này đã dẫn đến một mức độ tự mãn nhất định. Thậm chí ngạo
mạn trong quan hệ quốc tế, trong việc đánh giá các mối đe dọa an ninh, đặc biệt
là những mối đe dọa không đến từ các quốc gia được coi là đối thủ truyền thống
tiềm năng như Nga và Trung Quốc.
Nói về nguyên
nhân thì có nhiều, nhưng chung quy thì sự kết hợp giữa sự trỗi dậy của một tổ
chức khủng bố có tư tưởng cực đoan và khả năng thực hiện các vụ tấn công phức tạp,
cùng với những lỗ hổng trong hệ thống an ninh cùng với một phần tự mãnđã tạo điều kiện cho bọn khủng bố thực
hiện vụ tấn công tàn khốc vào ngày 11/9.
Sự kiện 11/9
đã giáng một đòn chí mạng vào nước Mỹ, để lại những hậu quả sâu sắc và kéo dài
trên mọi lĩnh vực. Mất mát về con người và vật chất: Khoảng 3.000 người thiệt mạng,
bao gồm công dân của hơn 90 quốc gia, không chỉ là những người làm việc tại Tòa
tháp đôi và Lầu Năm Góc mà còn có cả những người lính cứu hỏa, cảnh sát dũng cảm
đã hy sinh trong nỗ lực cứu hộ. Tổn thất vật chất lên tới hàng tỷ đô la.
Cái tổn thất
và đau thương thì khu tưởng niệm và bảo tàng đã biểu hiện rất rõ, khiến hàng
triệu người đến bây giờ vẫn còn kinh ngạc sững sờ. Sự kiện ngày 11/9 đã lột tả
những lỗ hổng chết người trong hệ thống an ninh Mỹ. Ngay sau sự kiện, Bộ An
ninh Nội địa (Department of Homeland Security) được thành lập, củng cố an ninh
hàng không với Cục An ninh Vận tải (Transportation Security Administration) ra
đời, các quy định kiểm tra an ninh sân bay trở nên nghiêm ngặt hơn bao giờ hết.
Luật Patriot Act được ban hành, mở rộng quyền hạn của chính phủ trong việc giám
sát và điều tra các hoạt động tình báo.
Thị trường chứng
khoán Mỹ sụp đổ tạm thời, ngành hàng không tê liệt trong nhiều ngày, và niềm
tin tiêu dùng giảm sút nghiêm trọng. Mặc dù kinh tế Mỹ dần phục hồi, nhưng nỗi
lo ngại về khủng bố vẫn là một trong những yếu tố ám ảnh người dân Mỹ, ảnh hưởng
đến các quyết định kinh doanh và đầu tư.
Phản ứng của
Hoa Kỳ là phát động "Cuộc chiến chống khủng bố" toàn cầu cùng với
phương Tây. Điều này dẫn đến các cuộc chiến tranh ở Afghanistan (lật đổ
Taliban, nơi Al-Qaeda đặt căn cứ) và Iraq (với lý do Saddam Hussein sở hữu vũ
khí hủy diệt hàng loạt và có liên hệ với khủng bố, mặc dù sau này điều này đã
được chứng minh là sai). Những cuộc chiến này kéo dài hàng thập kỷ, tiêu tốn
hàng nghìn tỷ đô la, hàng chục nghìn sinh mạng binh lính và dân thường bị “thế
chấp” kéo dài hàng thập niên, đồng thời tạo ra sự bất ổn sâu rộng khắp Trung
Đông.
Tôi tin rằng
sự kiện 11/9 không chỉ là một bi kịch mà còn là một bài học lịch sử vô cùng giá
trị không chỉ cho nước Mỹ mà cho tất cả các nước trên thế giới. 11/9 nhắc nhở
chúng ta rằng hòa bình và an ninh không phải là điều hiển nhiên. Ngay cả một quốc
gia hùng mạnh nhất cũng có thể bị tấn công và tổn thương bởi những thế lực thù
địch. Nó cho thấy rằng, trong một thế giới ngày càng kết nối, các mối đe dọa
không biên giới có thể xuất hiện từ bất cứ đâu.
Vụ tấn công
là minh chứng kinh hoàng cho sức hủy diệt của sự hận thù và tư tưởng cực đoan.
Nó cho thấy cách mà những ý thức hệ méo mó có thể biến con người thành những kẻ
ác thú tàn nhẫn, sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình và của người khác để đạt
được mục đích trả thù. Ngược lại, những câu chuyện về lòng dũng cảm, sự hy sinh
của các anh hùng cứu hộ và tinh thần đoàn kết của người dân Mỹ lại là những
minh chứng mạnh mẽ cho bản chất tốt đẹp của con người. Điều này nhấn mạnh tầm
quan trọng của việc nuôi dưỡng lòng trắc ẩn, sự thấu hiểu và khoan dung để chống
lại những hạt giống của hận thù.
Tôi đã trao đổi
thêm với các con ngày 11/9 là một ngày định mệnh thay đổi thế giới, thế giới
đơn cực do Mỹ đứng đầu đã đến đến giai đoạn suy tàn. Nói theo ngôn ngữ của giới
nghiên cứu về quan hệ quốc tế, thế giới bắt đầu dần chuyển từ trật tự một siêu
đa cường sang thế giới đa cực. Thảm họa kinh hoàng đối với nước Mỹ lại bắt đầu cho
một cơ hội, lại tạo đà cho sự trỗi dậy của Trung Quốc (không phải ngẫu nhiên
hàng triệu người Trung quốc và ngay cả giới tinh hoa như giáo sư, giảng viên và
sinh viên Trường Đại học Thanh Hoa tổ chức ăn mừng sau sự kiện khủng bố).
Sự kiện
11/9/2001 đã châm ngòi cho những thay đổi địa chính trị sâu rộng, mà nổi bật nhất
là việc Mỹ sa lầy vào "Cuộc chiến chống khủng bố" toàn cầu, kéo theo
hai cuộc chiến tranh tốn kém ở Afghanistan và Iraq. Nhìn lại hơn hai thập kỷ,
không khó để nhận ra rằng chính những quyết định chiến lược nóng vội, sai lầm
sau 11/9 đã vô tình tạo ra một khoảng trống quyền lực và nguồn lực, cho phép một
cường quốc khác, Trung Quốc, vươn mình mạnh mẽ và trở thành đối thủ cạnh tranh
đáng gờm nhất của Hoa Kỳ trong thế kỷ 21.
Sau sự kiện
11/9, dưới áp lực phẫn nộ của người dân và mong muốn trả đũa, chính quyền Mỹ đã
nhanh chóng phát động "Cuộc chiến chống khủng bố". Afghanistan, nơi ẩn
náu của Osama bin Laden và Al-Qaeda, là mục tiêu đầu tiên. Tiếp theo là cuộc
chiến tranh xâm lược Iraq với lý do Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt hàng
loạt và có liên hệ với khủng bố.
Những cuộc
chiến này, ban đầu được kỳ vọng là ngắn ngủi vì sức mạnh vượt trội và sự quyết
đoán, đã biến thành những cuộc xung đột kéo dài, tốn kém và không có hồi kết.
Nó tiêu hao số lượng tài chính khổng lồ. Ước tính, các cuộc chiến ở Afghanistan
và Iraq đã ngốn hàng nghìn tỷ đô la. Số tiền này không chỉ dùng để trang trải
chi phí quân sự trực tiếp (vũ khí, trang thiết bị, lương binh sĩ) mà còn bao gồm
chi phí chăm sóc y tế cho cựu chiến binh, tái thiết, và các hoạt động tình báo.
Mỗi đồng đô la chi ra cho cuộc chiến là một đô la không được đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, giáo dục, nghiên cứu và phát triển trong nước, những lĩnh vực thiết yếu
cho sự phát triển dài hạn của Mỹ.
Hàng nghìn
binh lính Mỹ đã thiệt mạng và hàng chục nghìn người bị thương; nhiều người mang
di chứng thể chất và tâm lý nặng nề. Sự hy sinh này không chỉ là mất mát cá
nhân mà còn ảnh hưởng đến xã hội Mỹ, tạo ra những vết thương lòng khó lành.
Thay vì tập
trung vào những thách thức địa chính trị đang nổi lên ở khu vực châu Á – Thái
Bình Dương, Mỹ lại bị sa lầy vào các cuộc xung đột ở Trung Đông và Trung Á. Nguồn
lực quân sự, tình báo và ngoại giao vốn có thể được sử dụng để đối phó với sự
trỗi dậy của Trung Quốc lại bị chuyển hướng, làm suy yếu khả năng cạnh tranh
chiến lược của Mỹ trong dài hạn.
Các cuộc chiến,
đặc biệt là cuộc chiến Iraq với những thông tin tình báo sai lệch, đã làm tổn hại
nghiêm trọng đến uy tín của Mỹ trên trường quốc tế. Những cáo buộc về vi phạm
nhân quyền, đặc biệt là ở nhà tù Abu Ghraib, càng làm suy yếu vị thế đạo đức của
Mỹ như một ngọn hải đăng của dân chủ và nhân quyền.
Trong khi Mỹ
đang chìm đắm trong các cuộc xung đột ở Trung Đông, Trung Quốc đã lặng lẽ và tận
dụng hiệu quả khoảng thời gian này để củng cố sức mạnh của mình. Trung Quốc tập
trung vào phát triển kinh tế và duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế phi thường,
thu hút hàng ngàn tỉ USD đầu tư từ Phương Tây và đặc biệt là từ Mỹ (đây chính
là sai lầm chết người của phương Tây, đặc biệt là của chính quyền các thời kỳ của
Mỹ đã biến Trung Quốc từ một nước nghèo nàn lạc hậu, một nước gần 30 triệu người
chết đói và chết trong cuộc thanh trừng nội bộ cuộc cách mạng văn hóa vô sản trở
thành công xưởng sản xuất của thế giới). Trung Quốc đã mở rộng sản xuất và xuất
khẩu ra toàn thế giới. Họ dồn toàn bộ nguồn lực vào nâng cao năng lực sản xuất,
phát triển công nghệ và cải thiện đời sống người dân.
Trong khi Mỹ bận rộn với các cuộc chiến, Trung
Quốc đã khéo léo thể hiện hình ảnh một cường quốc đang trỗi dậy một cách
"hòa bình" trong gần hai thập niên, tập trung vào phát triển kinh tế
và hợp tác. Điều này giúp Trung Quốc xây dựng mạng lưới ảnh hưởng thông qua các
sáng kiến kinh tế như "Vành đai và Con đường", mở rộng thương mại và
đầu tư vào nhiều quốc gia đang phát triển.
Với thặng dư
thương mại toàn cầu, với nguồn lực kinh tế dồi dào, Trung Quốc đã đầu tư mạnh mẽ
vào việc hiện đại hóa quân đội, phát triển các công nghệ tiên tiến như tên lửa
siêu thanh, máy bay tàng hình, và lực lượng hải quân. Việc này diễn ra trong bối
cảnh Mỹ đang phải dàn trải nguồn lực quân sự ở nhiều mặt trận, ít có khả năng tập
trung vào đối phó với sự thay đổi cán cân quân sự ở châu Á.
Trong khi sự
chú ý của Mỹ chuyển sang các vấn đề khủng bố, Trung Quốc đã tăng cường ảnh hưởng
của mình ở Đông Nam Á, châu Phi, và Mỹ Latinh thông qua đầu tư, viện trợ và các
thỏa thuận thương mại. Và theo quy luật của một đế quốc mới trỗi dậy, Trung Quốc
bắt đầu thể hiện mình, bắt đầu chứng tỏ sức mạnh cơ bắp của mình, ngang nhiên
tuyên bố và hành động như thể khu vực biển Hoa Đông và Biển Đông là của mình,
nhằm viết lại luật chơi mới cạnh tranh vị thế siêu cường với Mỹ… Điều này đã dần
thách thức vị thế lãnh đạo của Mỹ trong nhiều khu vực.
Chính sự kiện
11/9 và những quyết định chiến lược sai lầm sau đó là một minh chứng rõ ràng
cho bài học về sự đánh đổi trong địa chính trị. Việc Mỹ ưu tiên "Cuộc chiến
chống khủng bố" đã vô tình làm suy yếu tiềm lực nội tại và làm chệch hướng
sự chú ý khỏi một đối thủ cạnh tranh chiến lược đang trỗi dậy.
Thực tế này
không phủ nhận sự cần thiết của việc chống lại khủng bố. Tuy nhiên, nó đặt ra
câu hỏi lớn về tính hiệu quả của cách tiếp cận toàn diện và kéo dài của Mỹ. Liệu
có một cách tiếp cận khác, cân bằng hơn, có thể vừa đảm bảo an ninh quốc gia vừa
duy trì được lợi thế cạnh tranh dài hạn?
Ngày nay, khi
Mỹ và Trung Quốc đang bước vào một kỷ nguyên cạnh tranh chiến lược gay gắt, nhất
là dưới thời Tổng thống Mỹ Donald Trump, điều quan trọng là phải nhìn nhận lại
lịch sử một cách thẳng thắn. Bi kịch 11/9 không chỉ là một sự kiện của nỗi đau
và sự mất mát, mà còn là một bước ngoặt đã định hình lại trật tự thế giới, vô
tình mở ra cánh cửa cho sự trỗi dậy của một cường quốc mới đầy tham vọng, thách
thức vị thế siêu cường của Mỹ. Bài học từ những năm tháng hậu 11/9 là lời nhắc
nhở đắt giá cho nước Mỹ về tầm quan trọng của việc hoạch định chiến lược với tầm
nhìn xa trông rộng, cân bằng giữa các mối đe dọa trước mắt và những thách thức
dài hạn.