Mốiquan hệ Mỹ-Trung sẽ đi đến đâu

Leave a Comment
Trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại, có thể nói quan hệ Mỹ-Trung có tầm quan trọng hết sức đặc biệt. Nhất là từ khi Trung Hoa Dân quốc mất ghế tại Liên Hợp Quốc năm 1971, thay thế vào đó là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nếu như ba, bốn thập niên trước đây, Trung Hoa chỉ là một nước đông dân cư nhất thế giới, một nước đói nghèo thuộc thế giới thứ 3, Mỹ vẫn lợi dụng được Trung Hoa trong ván bài làm sụp đổ Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (gọi tắt là Liên Xô) để tiếp tục duy trì vị thế siêu cường duy nhất còn lại, thì ngày nay Trung Hoa nổi lên thành một cường quốc và có thể là một cường quốc lớn nhất về kinh tế thì Mỹ càng phải cần đến Trung Hoa trên nhiều vấn đề mang tính toàn cầu như chính trị, kinh tế, biến đổi khí hậu, và vấn đề hạt nhân Triều Tiên… Liệu rằng Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ có chịu chia sẻ vị thế siêu cường và quyền lợi quốc gia với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa?
Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 1949 đến năm 2010
Quan hệ Mỹ-Trung đã trải qua nhiều thăng trầm. Từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 đến năm 1972, hơn hai mươi năm Mỹ-Trung là kẻ thù không đội trời chung. Quan hệ hai nước trong bối cảnh chiến tranh lạnh, luôn bên bở vực chiến tranh, thậm chí Mỹ đã tính đến sử dụng lực lượng hạt nhân chiến thuật sau cuộc chiến tranh Triều Tiên. Nhưng bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỉ trước, do những khó khăn của cả hai nước, họ đến với nhau và cả hai đều điều chỉnh chính sách của mình. Mỹ phải hi sinh Đài Loan, nhượng bộ Trung Quốc ngồi vào ghế Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an. Về phía Trung Quốc, họ chuyển từ chính sách mang nặng ý thức hệ sang chính sách thực dụng, sát cánh với Mỹ để chống Liên Xô, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai siêu cường để tìm kiếm lợi ích quốc gia. Nhân tố Mỹ trong chính sách đối ngoại của Trung Hoa chuyển dần từ kẻ thù sang một dạng đồng minh đôi bên cùng có lợi.
Điều quan trọng là cải thiện quan hệ với Mỹ giúp Trung Hoa đặt nền móng và phát triển quan hệ với thế giới phương Tây. Từ chỗ bị cô lập, Trung Hoa có cơ hội vươn rộng ra với cộng đồng quốc tế. Điều này đặt nền móng cho công cuộc cải cách kinh tế thần kì mà Đặng Tiểu Bình khởi xướng ở giai đoạn sau. Mâu thuẫn lớn nhất giữa hai nước là về ý thức hệ tạm  thời được gác lại. Mỹ chính là đột phá khẩu cho chiến lược hướng ra bên ngoài của Trung Hoa. Với tư cách là một thị trường, Mỹ trở thành một đối tác cần thiết có vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển về mọi mặt, cụ thể là Bốn hiện đại hóa (Four Modernization) trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học công nghệ nhằm biến Trung Hoa thành một cường quốc hiện đại.
Đến những năm 1980 trở đi, quan hệ Mỹ-Trung vẫn là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau, tập hợp lực lượng để tạo thế so sánh trong quan hệ với Liên Xô. Sau khi quan hệ Mỹ-Xô đi vào thế hòa hoãn cuối những năm 80, đặc biệt là sau năm 1989, sau sự kiện Thiên An Môn, Bắc kinh dùng xe tăng nghiền chết hàng ngàn sinh viên biểu tình, vị trí của Trung Quốc trong chiến lược của Mỹ bị hạ thấp, và sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ ra sức thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình. Trung Hoa lẳng lặng phát triển kinh tế, ổn định nội bộ và đã khôn ngoan không thành lập mặt trận chống Mỹ như giai đoạn đầu. Mặc dù có nhiều sóng gió trong quan hệ hai nước, nhưng Trung Hoa đã thành công thực hiện chính sách “giấu mình chờ thời” của chiến lược gia Đặng Tiểu Bình.
Sự kiện 11 tháng Chín năm 2001, sự kiện khủng bố đánh vào tòa tháp đôi, biểu tượng kinh tế của nước Mỹ, giết hại gần ba nghìn người là cơ hội trời cho đối với Trung Hoa. Mỹ lao vào cuộc chiến chống khủng bố và sa lầy trong hai cuộc chiến ở Afganistan và Iraq, tiêu tốn hàng ngàn tỉ đô la cùng với rất nhiều nguồn lực con người trong mớ bùng nhùng Trung Đông. Lợi dụng tình hình đó, tận dụng xu thế toàn cầu hóa, Trung Hoa đã biến mình trở thành công xưởng của thế giới, có nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới và vươn lên trở thành một cường quốc ở châu Á, đồng thời bước lên sân khấu toàn cầu. Đáng chú ý hơn là dựa vào tiềm lực kinh tế ngày một lớn của mình, Trung hoa không ngừng đầu tư cho quốc phòng và hiện đại hóa quân đội. Mức độ chi tiêu cho quốc phòng liên tục tăng trong nhiều năm, chỉ đứng sau Mỹ.
Bước sang thiên kỉ mới sau mười lăm năm, mặc dầu bắt đầu bộc lộ nhiều mâu thuẫn, quan hệ Mỹ-Trung vẫn phụ thuộc vào nhau về chính trị, kinh tế, ngoại giao. Họ là đối thủ của nhau nhưng đồng thời cũng là đối tác của nhau. Điều này khác hẳn với quan hệ Mỹ-Xô trong thời gian chiến tranh lạnh. Hai siêu cường kéo theo hai phe đối lập nhau trên tất cả các mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự. Quan hệ Mỹ-Trung bây giờ phức tạp hơn nhiều. Mỹ không còn là một siêu cường trong thời hoàng kim. Trung Hoa cũng không chỉ đơn thuần là một cường quốc Cộng sản độc đoán. Chính sách của họ cũng không chỉ là mèo đen hay là mèo trắng. Họ đang tối đa tầm ảnh hưởng ở khu vực Tây Thái Bình Dương; xây dựng các mối quan hệ kinh tế với các nước, phát huy lợi thế với các nước trong khu vực xung quanh, đồng thời tìm kiếm vai trò lớn hơn tại các thể chế đa phương hiện hữu; tìm mọi cách thống nhất hai bờ eo biển Đài Loan và khẳng định yêu sách chủ quyền một Trung Quốc với các nước còn quan hệ chính trị với Đài Loan; tăng cường sức mạnh quốc phòng và phạm vi hoạt động quân sự, đặc biệt là xây dựng phát triển sức mạnh biển; duy trì quan hệ tích cực và có lợi với Mỹ, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cạnh tranh đối đầu chiến lược Mỹ-Trung ở châu Á-Thái Bình Dương.
Mục tiêu chiến lược của Trung Hoa là hoàn thành việc xây dựng một xã hội thịnh vượng trên mọi lĩnh vực vào năm 2021 khi Đảng Cộng sản Trung Hoa kỉ niệm 100 năm ngày thành lập và xây dựng một đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, thịnh vượng, vững mạnh, dân chủ, nâng cao đời sống văn hóa và hài hòa vào năm 2049, khi nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa đánh dấu chặng đường 100 năm ngày thành lập. Nhiệm vụ nòng cốt để thực hiện mục tiêu họ đề ra là gia tăng sức mạnh quân sự để bảo vệ đất nước, mở rộng quyền lực ra phía đông Thái Bình  Dương, củng cố sức mạnh tiến vào Ấn Độ Dương và tạo ra “con đường tơ lụa mới” trên biển…
Nhìn lại quan hệ Mỹ-Trung từ 1949 đến 2010, các nhà quan sát quốc tế nhận thấy mối quan hệ này chứa đựng đầy đủ hai mặt hợp tác và cạnh tranh. Trong đó cạnh tranh là đặc điểm xuyên suốt qua mọi thời kì. Nhưng trong sự hợp tác lợi dụng, cả hai bên đều thiếu sự tin tưởng lẫn nhau. Trung Hoa luôn cảnh giác với chiến lược diễn biến hòa bình, can thiệp nội bộ, thay đổi chế độ của Mỹ. Và cũng vì sự khác biệt về hệ thống chính trị, Mỹ luôn tấn công Trung Hoa về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, ăn cắp bản quyền, gián điệp mạng, thao túng thị trường… còn Trung Hoa thì không hài lòng với trật tự thế giới do Mỹ và phương Tây lãnh đạo. Trung Hoa chắc chắn sẽ không từ bỏ cạnh tranh với Mỹ và Mỹ cũng là đối thủ mà Trung Hoa muốn vượt qua.
Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 2010 đến nay
Từ khi Tập Cận Bình lên nắm chính quyền, Bắc Kinh bắt đầu sốt sắng đẩy mạnh “giấc mơ Trung Hoa”. Bắc kinh tự tin đến tự mãn, quyết đoán đến hung hãn, bất chấp mọi thủ đoạn để thực hiện được các mục tiêu. Chính sách của Bắc kinh dựa trên hai trụ cột chính là: Sức mạnh kinh tế và vị thế quốc tế; vứt bỏ chính sách giấu mình chờ thời, thực thi chính sách cứng rắn ở Hoa Đông, Biển Đông, gây áp lực với Nhật Bản, Việt Nam, Philippines; tăng cường ảnh hưởng ở Mianma, Lào, Campuchia; thiết lập quan hệ kiểu mới với các nước lớn… Mục đích của Bắc Kinh là phát triển kinh tế nhằm vượt Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới; hiện thực hóa để trở thành cường quốc biển; hiện đại hóa quân đội nòng cốt là hải quân, không quân và tác chiến điện tử, không gian mạng; vươn lên trở thành cường quốc toàn cầu, có vai trò chủ chốt trong quan hệ quốc tế.
Theo quy luật lịch sử giữa một cường quốc đứng đầu và một cường quốc chuẩn bị thay thế, nhiều nhà bình luận và quan sát quốc tế đã đặt ra vấn đề quan hệ Mỹ-Trung theo thời gian sẽ dẫn đến chiến tranh. Ngay ở cả Trung Hoa cũng có nhiều người đặt vấn đề chiến tranh Trung-Mỹ là không thể tránh khỏi. Đúng là Trung Hoa đang nổi lên và trở thành một cường quốc lớn sau nhiều thế kỉ bị ngoại bang xâm chiếm và chia cắt. Giới hoạch định chiến lược Trung Hoa đã chứng minh được cùng với sự phát triển kinh tế, sức mạnh quân sự của họ đang ngày cành gia tăng, Bắc Kinh đã và đang thách thức Mỹ và các cường quốc châu Á và các quốc gia láng giềng về năng lực phòng thủ cũng như tấn công của họ. Tuy nhiên xét kĩ, thực lực quân sự của Trung Hoa so với Mỹ còn một khoảng cách khá xa. Các chuyên gia cho rằng Trung Hoa phải cần hai mươi đến ba mươi năm nữa mới mới có thể lấp được khoảng cách đó.
Cũng có nhiều nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc muốn đi theo con đường của Đặng Tiểu Bình, đưa Trung Hoa trở thành cường quốc kinh tế lớn nhất, nhưng sẽ không tranh bá. Lịch sử các cường quốc trong quá khứ như Đế quốc La Mã, Đế quốc Nguyên Mông mà Trung Hoa là một phần, Đế quốc Anh và gần đây nhất là Liên Xô… Tất cả đã cho Bắc Kinh  quá nhiều bài học cay đắng về số phận của những anh cả, anh hai trên trường quốc tế. Những người theo quan điểm này muốn Bắc Kinh thực hiện một chiến lược lâu dài là hợp tác, canh tranh và tránh xung đột với Mỹ. Các nhà hoạch định chính sách trung dung thì khuyến cáo Bắc Kinh phải hết sức thận trọng, tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ cho đến khi tiềm lực kinh tế và quân sự của họ thay đổi về chất và ở trong tình trạng đã hoàn toàn sẵn sàng. Họ cho rằng trước mắt Bắc Kinh cần trỗi dậy một cách an toàn ở châu Á mà không gây ra bất kì xung đột nghiêm trọng nào ở khu vực này
Sự thay đổi chiến lược quân sự của Trung Hoa
 Có vẻ như Bắc kinh đang đi chênh vênh giữa hai chính sách diều hâu và ôn hòa. Trước mắt họ đang tìm cách gây áp lực với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản; tìm cách áp đặt ý chí và đưa Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng. Họ sử dụng các phương tiện phi đối xứng như bồi đắp tôn tạo các rạn đá ở Biển Đông, mở rộng khu vực hải quân và không phận bên cạnh việc tuyên bố chủ quyền lịch sử để khẳng định sức mạnh và lợi ích của mình. Họ có đòn bẩy  kinh tế, có khả năng quân sự. Họ đã phô diễn sức mạnh cơ bắp. Vấn đề là họ sẽ đi xa đến đâu và kết quả cuối cùng trong việc thay đổi cán cân quyền lực sẽ diễn ra như thế nào ở châu Á-Thái Bình Dương.
   Có nhiều dấu hiệu chắc chắn cho thấy Trung Quốc đã, đang và sẽ đi theo con đường phát triển truyền thống của các cường quốc trong lịch sử như Tây Ban Nha, Anh, Nga, Nhật, Mỹ- phát triển sức mạnh biển với lực lượng hải quân làm trung tâm theo tư tưởng của  Alfred Mahan, có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh Trung Quốc. Họ không chỉ tập trung vào hải quân và thương mại như các cường quốc trước đây mà còn quyết tâm xây dựng một chiến lược biển toàn diện, phối hợp với nhiều lực lượng như hải cảnh, tuần duyên, lực lượng dân sự đánh cá hùng hậu mà họ có ý định phát triển thành cuộc chiến tranh nhân dân trên biển, tôn tạo xây dựng các đảo và bãi đá ngầm thành các căn cứ quân sự trên biển… Tất cả nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp giành lấy lợi thế chiến lược trước các cường quốc trong và ngoài khu vực, đẩy Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi Biển Đông, đồng thời ép các nước nhỏ trong khu vực phụ thuộc vào ý chí của Trung Hoa.
Để chống lại một cuộc tấn công giả định của Mỹ và các đồng minh vào các khu vực trọng điểm kinh tế phía đông, Trung Hoa đã xây dựng chiến lược chống tiếp cận (Anti-Access/ Area Denial-A2/AD). Bài học về khủng hoảng eo biển Đài Loan, Mỹ đưa hạm đội tàu sân bay đến bảo vệ Đài Loan, buộc Trung Hoa phải xuống thang, cùng với những nghiên cứu kĩ về cuộc chiến của Mỹ ở Nam Tư, Afganistan, Iraq, Giới quân sự Trung Hoa cho rằng lực lượng không quân và hải quân là át chủ bài để Mỹ và các nước đồng minh tiến hành các cuộc chiến tranh “không tiếp xúc, không giới tuyến, không cân xứng”. Ba nội dung đó là đặc điểm của các cuộc chiến tranh khu vực trong điều kiện thông tin hóa, trong đó sức mạnh không quân, hải quân cùng với khái niệm không gian vũ trụ và không gian mạng là rất cần thiết để giành thắng lợi nếu chiến tranh xảy ra.
Bắc kinh yêu cầu quân đội đẩy mạnh nỗ lực phát triển khả năng A2/AD cả ở trên không,   trên biển nhằm ngăn chặn, đánh bại Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương trong một cuộc chiến trên không, trên biển nhằm vào bờ biển phía đông nước này. Để đạt được mục tiêu này, chiến lược A2/AD của Trung Hoa bao gồm quy mô chiến lược và chiến thuật. Ở quy mô chiến lược, Bắc Kinh triển khai cái gọi là ba cuộc chiến tranh: Pháp lí, dư luận công chúng và chiến tranh tâm lí. Mục đích của nó là phủ nhận tính hợp pháp của các lực lượng Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương, đẩy Mỹ ra khỏi khu vực để kiểm soát tất cả các nước ven biển Đông Á. Thực hiện chiến lược này, Trung Hoa không chỉ nhằm vào Mỹ mà còn nhằm vào các đồng minh của Mỹ và các đối thủ ở châu Á-Thái Bình Dương, thuyết phục các nước không cho các lực lượng của Mỹ tác chiến trong không phận và hải phận. Họ cũng đe dọa các nước cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự nhằm ngăn chặn và phá hủy các khả năng triển khai của các lực lượng Mỹ ở khu vực.
Ở quy mô chiến thuật, chiến lược A2/AD liên quan đến các hệ thống vũ khí nhằm tiêu diệt hoặc gây tổn thất cho các lực lượng Mỹ và đồng minh như các hệ thống tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cố định (CSS4) có tầm vươn tới bất kì mục tiêu nào trên lãnh thổ Mỹ; tên lửa DF-31A có thể tấn công di động vào các mục tiêu trên Thái Bình Dương; các loại tên lửa chống hạm, chống tàu, hệ thống tàu ngầm các loại, hệ thống tàu tên lửa các loại, thậm chí cả vũ khí tấn công siêu thanh. Đặc biệt chương trình không gian mà Bắc kinh tiến hành không phải vì mục đích hòa bình như họ nói mà nhằm chống lại các đối thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Không quân Mỹ tiết lộ hơn 500 vệ tinh nước này bị đe dọa từ chương trình “công nghệ phản không”, chương trình phản kích trong không gian của Trung Hoa… Có thể nói  A2/AD về quy mô chiến thuật, Trung Hoa quá thành công và thật sự là một thách thức đối với giới quân sự Mỹ.
Chiến lược mới của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương
Trong thập niên đầu của thiên kỉ mới, Mỹ đã nhiều lần cảnh báo về chính sách kinh tế, quốc phòng của Trung Hoa. Nhưng thực tế Trung Hoa vẫn chưa tìm cách thay đổi trật tự thế giới sau Chiến tranh Thế giới thứ 2; không đem quân đi can thiệp ở bất cứ nơi nào; không dùng vũ lực giải quyết vấn đề Đài Loan; không giải quyết xung đột bằng vũ lực và đặc biệt là không thách thức vị thế toàn cầu của Mỹ. Chính vì thế chính sách của Mỹ đối với Trung Hoa nhìn chung vẫn là nhân nhượng, cạnh tranh và hợp tác trên bình diện toàn cầu. Tuy vậy, Mỹ luôn xem Trung Hoa là một đối thủ đe dọa vị thế kính tế, quân sự của Mỹ. Như trên đã nói, ngoài việc tấn công Trung Hoa về dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng… Mỹ đã bắt đầu hành động vào cuối những năm 2000.
Thể hiện rõ nét nhất bắt đầu từ nhiệm kì đầu của Tổng thống Barack Obama. Phát súng đầu tiên bắt đầu nổ vào ngày 21 tháng 10, 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố “Chúng tôi đã trở lại châu Á”. Sau đó bà khẳng định Mỹ có “lợi ích quốc gia” tại Biển Đông và Mỹ ủng hộ Tuyên bố ứng xử về Biển Đông giữa ASEAN và Trung Hoa năm 2002 tại cuộc họp các nước ASEAN với các đối tác tại Hà Nội. Ngoại trưởng Trung Hoa Dương Khiết Trì khi đó đã bỏ cuộc họp để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Biển Đông. Tiếp theo tháng 10, 2011 Mỹ tuyên bố thực hiện chính sách xoay trục, chuyển 60% nguồn lực quốc phòng về khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Mỹ Clinton viết, nước Mỹ “chuyển hướng chiến lược sang khu vực này… nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới của nước Mỹ”.
Trước tham vọng của Trung Hoa với các bên ở Hoa Đông và Biển Đông, Chính quyền Obama công bố bán gói vũ khí trị giá 6,4 tỉ đô la cho Đài Loan, thổi bùng tranh cãi Mỹ-Trung. Với chính quyền Obama, ngoài việc xử lí hậu quả của hai cuộc chiến ở Afganistan và Iraq, Washington phải xử lí mối quan hệ đầy thách thức với Trung Hoa. Nhưng như Ngoại trưởng Mỹ phát biểu “chúng ta không phải gửi đi một thông điệp vô cớ đến Trung Quốc mà để thể hiện sự chắc chắn trong quan điểm của chúng ta”. Nếu Trung Hoa đi quá xa, nước Mỹ sẽ hành động. Đáp trả việc Trung Hoa áp đặt vùng nhận diện phòng không chồng lấn lên các nước đồng minh (Air Defense Identification Zone- ADIZ) ở Hoa Đông tháng 11, 2013, Mỹ đã điều máy bay B52 bay vào ADIZ của Trung Hoa tuyên bố. Tiếp theo tháng 4, 2014 Tướng Tư lệnh Thủy quân Lục chiến John Wissler đóng tại Nhật đã tuyên bố nếu Trung Hoa chiếm Senkaku, Thủy quân Lục chiến sẽ vào cuộc. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong chuyến công du châu Á cũng tuyên bố việc bảo vệ Senkaku là điều hiển nhiên vì nó nằm trong Hiệp ước Quốc phòng Mỹ-Nhật. Thông điệp cảnh báo trên được tô đậm thêm bằng thông điệp tương tự của Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ Daniel Russel, Trung Hoa không nên làm theo “kiểu Crimea” tại châu Á . Đó là những thông điệp mạnh mẽ kể từ khi Mỹ thực hiện chính sách tái cân bằng.
Sự gia tăng căng thẳng với Việt Nam và Philippine của Trung Hoa nhằm độc chiếm Biển Đông khiến Mỹ và philippines kí Thỏa thuận Hợp tác Quốc phòng, mở đầu việc Mỹ sử dụng 8 căn cứ quân sự ở Philippines, trong đó có Căn cứ Hải quân Subic và Căn cứ Không quân Clark (xin xem bài Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực về Biển Đông, chiến thắng của công lí và thất bại của chủ nghĩa cường quyền cũng trong blog này); đồng thời khiến Mỹ xóa bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Và chưa đầy một tuần sau Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế mà Trung Hoa bác bỏ, Hải quân Mỹ đã đưa chiến đấu cơ và các máy bay tác chiến điện tử tối tân và quân nhân đến Philippines. Đặc biệt gần đây nhất Đô đốc Cecil D. Haney, lãnh đạo Bộ chỉ huy Chến lược thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ cho biết Mỹ đã triển khai ba máy bay ném bom tàng hình có khả năng mang bom nguyên tử B-2 đến đảo Guam để thực hiện các nhiệm vụ tấn công “bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào có lệnh”.
Rõ ràng chúng ta thấy quan hệ Mỹ-Trung nóng lên từng năm cùng với sự gia tăng căng thẳng của Trung Hoa ở Hoa Đông và Biển Đông. Nếu như trong thập niên 90 của thế kỉ trước và trong những năm 2000, mâu thuẫn hai nước chủ yếu chỉ là vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng… thì từ năm 2010 trở đi hai bên đã hành động dẫn đến những  mâu thuẫn thêm về chính trị, quân sự, ngoại giao. Cả hai bên đều bắt đầu tập hợp lực lượng, phương tiện và động chạm đến những “lợi ích cốt lõi của nhau”. Chưa thấy có dấu hiệu nào tỏ ra có sự thỏa hiệp và hòa hoãn giữa hai bên.
Những bước đi chiến thuật gần đây của Trung Hoa
Về phía Trung Hoa họ vẫn tiếp tục gây căng thẳng ở Hoa Đông và Biển Đông. Đặc biệt là ở Biển Đông. Họ vẫn tiếp tục hoàn thiện, đưa vào sử dụng các căn cứ tôn tạo ở Biển Đông, đồng thời có dấu hiệu đang tiếp tục mở rộng thêm sau khi bác bỏ Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế về Biển Đông. Bắc Kinh muốn tự đặt ra luật chơi. Dựa vào nguyên tắc đồng thuận chết người của ASEAN, Trung Hoa triệt để thực hiện chính sách chia để trị. Họ dùng đòn bẩy kinh tế để “mua” Campuchia ngăn ASEAN ra tuyên bố về Biển Đông và tuyên bố về Phán quyết của Tòa Trọng tài về Biển Đông. Kết quả của chính sách chia để trị đã làm vừa lòng Bắc Kinh khi các nước nhỏ có ý kiến “cần tránh xa ngọn lửa hung dữ từ miệng con rồng nên không thể ra tuyên bố chống lại họ. Trung Hoa không chỉ sử dụng đòn bẩy kinh tế, lực lượng tên lửa chiến lược, chiến thuật, lực lượng hải quân, không quân để ngăn chặn và ép buộc các quốc gia trong khu vực trong cuộc chiến tranh ba mặt trận như phần trên đã đề cập. Cuộc chiến tranh pháp lí, cuộc chiến tranh truyền thông dư luận, cuộc chiến tranh tâm lí cộng với hành động quân sự, bán quân sự, lực lương tầu đánh cá dân sự với mục đích làm đối phương phải nản lòng, hoặc thuyết phục các quốc gia láng giềng hiểu, nếu đi ngược ý chí của Trung Hoa thì cái giá phải trả sẽ không thể chịu đựng nổi. Liệu Trung Hoa có thắng được cuộc chiến với các nước xung quanh trước khi bước vào cuộc chiến quyết định với Mỹ trong tương lai?
Cuộc chiến của Trung Hoa áp đặt luật chơi của mình với các nước đồng minh của Mỹ ở Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Nhật Bản), kể cả Bắc Triểu Tiên và thống trị các nước Đông Nam Á, độc chiếm Biển Đông có lẽ là một ý tưởng ngông cuồng trong giấc mơ Trung Hoa. Liệu Bắc Kinh có thực hiện được trên con đường trỗi dậy an toàn ở châuÁ? Còn việc triển khai chiến lược và phát triển sức mạnh biển, Trung Quốc phải căng mỏng lực lượng trên rất nhiều hướng. Trong khi đó tốc độ phát triển kinh tế bắt đầu chững lại, tiềm lực công nghệ và năng lực viễn hải hạn chế, uy tín chính trị và tầm ảnh hưởng khu vực cũng như quốc tế thấp. Hơn nữa tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải cùng với việc củng cố các yêu sách, tuyên bố chủ quyền phi lí, Trung Hoa còn phải đương đầu với sự phản ứng của hầu hết các quốc gia có vùng biển liên quan tới Trung Hoa từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam, Malaisia… Chỉ một Philippines với vụ kiện lên Tòa án Trọng tài Thường trực Liên Hợp Quốc cũng đã đủ làm khuynh đảo giới lãnh đạo Trung Hoa rồi.
Trước mắt Trung Hoa chưa đối đầu với Mỹ. Nhưng chắc chắn Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ mục tiêu địa chính trị Đài Loan, Quần đảo Senkaku, gây áp lực với các đồng minh của Mỹ hoặc từ bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp (đã bị Tòa Trong tài Quốc tế bác bỏ) gần như chiếm trọn vùng biển, vùng trời ở Biển Đông. Với việc củng cố mở rộng các đảo tôn tạo thành các căn cứ quân sự, Bắc Kinh sẽ không bao giờ từ bỏ chiến lược pháo hạm của lực lượng hải quân với hệ thống tên lửa chống tàu các loại. Họ sẽ chia rẽ đến cùng mục tiêu chung của các ASEAN nếu đi ngược lại lợi ích của Trung Hoa, vì không có Biển Đông, không thâu tóm được các nước Đông Nam Á Trung Hoa rất khó khăn để có thể phát triển  sức mạnh hải quân, khó có thể trở thành cường quốc biển, và do vậy họ không thể đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương, không khống chế được một trong tuyến đường vận chuyển huyết mạch của thế giới và của chính họ.
Những bước đi chiến thuật gần đây của Mỹ
Không may cho Trung Hoa, cho đến nay Mỹ không có ý định từ bỏ vai trò lãnh đạo thế giới của mình và cũng không chấp nhận đề nghị của Tập Cận Bình xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới Mỹ-Trung. Có nghĩa là Wasinhton không chấp nhận cùng chiếu với Bắc Kinh. Mỹ đã phản ứng với Bắc Kinh trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, phản ứng Bắc Kinh trong quan hệ song phương, ở các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế, kể cả ở G7, G 20 về vấn đề Biển Đông, yêu cầu Bắc Kinh phải chấp hành Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế về Biển Đông và quyền tự do hàng hải ở Biển Đông… Có nghĩa là Mỹ không cho phép Trung Hoa được đặt ra luật chơi, mà phải tuân theo luật quốc tế hiện hành.
Đối phó với sự thay đổi về chiến lược quân sự mới, với tình trạng vừa ổn định vừa bất ổn định do Bắc Kinh gây ra ở Hoa Đông và Biển Đông, đặc biệt là đối với A2/AD, giới quân sự Mỹ đã xây dựng Chiến lược Tác chiến trên Không trên Biển (Air Sea Battle Operational Concept- ASB). Chiến lược Tác chiến Không-Biển có mục tiêu: “phá hủy, tiêu diệt và đánh bại mọi lực lượng quân sự thù địch của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường, thống trị bầu trời và mặt biển, phong tỏa lục địa của đối phương. Lực lượng quân sự thù địch bao gồm cả đối tượng tác chiến có tiềm lực quân sự hùng mạnh để phong tỏa toàn bộ khu vực Tây Thái Bình Dương”.
Nội dung chủ yếu của Chiến lược Tác chiến Không-Biển là sử dụng tất cả sức mạnh các lực lượng hải quân bao gồm tất cả các cụm tàu sân bay, chiến hạm tác chiến, tàu ngầm, không quân hải quân, lực lượng không quân và các lực lượng khác bao gồm bộ binh, lực lượng đặc nhiệm, lực lượng các nước đồng minh, tác chiến điện tử… với mục đích tấn công, tiêu diệt, bao vây và phong tỏa đất liền trên một không gian chiến trường rộng lớn, nhằm bóp nghẹt và phá hủy, tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa sức mạnh quân sự, vũ khí trang bị chiến tranh của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường trong cuộc chiến tranh phi tiếp xúc, hỏa lực quy mô lớn, độ chính xác cao. Trọng tâm của nó là hệ thống tên lửa phòng thủ, tấn công chống các loại tên lửa, tên lửa đạn đạo, phá vỡ hệ thống chỉ huy và kiểm soát, hệ thống tình báo, giám sát, do thám làm mù, làm câm, làm điếc đối phương.
Xem ra mục tiêu qua lớn, còn phải xem lại nguồn lực của Mỹ để có thể thực hiện được chiến lược Tác chiến Không- Biển hay không. Khi mà Chính quyền Obama đang hướng tới việc cắt giảm 487 tỷ đô la ngân sách dành cho quốc phòng trong vòng một thập kỷ tới. Mỹ giảm nhiều chi phí dành bộ binh, rút khỏi các cuộc chiến tranh ở Afgamistan và Iraq, nhưng lại tăng cường sức mạnh hải quân, không quân và hướng tới châu Á. Mặc dầu ông Obama nói việc “cắt giảm chi tiêu ngân sách quốc phòng sẽ không ảnh hưởng gì đến chính sách của chúng tôi ở khu vực này”. Nói vậy, nhưng nước Mỹ ngoài việc phải tập trung đối phó với Trung Hoa, Mỹ còn phải đối phó với những thách thức ở châu Âu và Trung Đông. Liệu Mỹ có đủ nguồn lực dành cho quốc phòng trong khi phải cắt giảm ngân sách?
Cho đến thời điểm hiện tại, trên lĩnh vực chính trị, việc tập hợp lực lượng xung quanh khu vực châu Á-Thái Bình Dương rõ ràng Mỹ đã gặt hái được rất nhiều thành công. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã củng cố liên minh Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật, Mỹ-Australia và Mỹ-Philippines chặt chẽ hơn bao giờ hết. Quan hệ Mỹ-ASEAN đã định hình được khuôn khổ chiến lược kinh tế, chính trị, an ninh tốt đẹp trong tương lai sau Hội nghị Sunderland giữa Mỹ với mười nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Hơn nữa quan hệ Mỹ-Ấn Độ cũng tốt đẹp hơn bao giờ hết, đặc biệt là quan hệ quốc phòng chia sẻ, sử dụng các căn cứ quân sự hậu cần giữa Mỹ và Ấn Độ.
Ngoài ra, trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á hay còn gọi là Hội nghị Shangri-la 15 (xin xem bài Đằng sau Shangri-la cũng trong blog này) ngày 14 tháng 6, 2016 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi xây dựng một mạng lưới an ninh tập thể mới (collective security network), dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực chung. Đây là một xu thế mới mà bản chất là an ninh tập thể do Mỹ lãnh đạo nhằm đối phó với Trung Hoa. Chắc chắn điều này đang và sẽ được nhiều quốc gia ủng hộ. Có nhiều dấu hiệu cho thấy nó đang và sẽ tạo ra một cục diện mới ở châu Á-Thái Bình Dương. Mỹ làm được điều này không chỉ có nhờ vào khả năng của Mỹ mà còn là nhờ vào tham vọng bành trướng và biểu hiện sức mạnh cơ bắp của Trung Hoa, khiến các nước đều ngả về phía Mỹ để cân bằng trước một Trung Hoa trỗi dậy không phải là hòa bình như họ nói. Bắc Kinh đang coi mình, đang biến mình trở thành một Thiên triều như hàng ngàn năm lịch sử phong kiến trước đây.
Kết luận
Tựu chung lại, chính quyền hai nước Mỹ-Trung vẫn đang thực hiện những bước đi nằm trong tính toán chiến lược của họ. Hai năm qua, năm 2015-2016, cả hai nước đã đẩy xung đột lên đến cao độ. Trước mắt, trận tuyến ưu tiên hàng đầu của Trung Hoa là Hoa Đông và Biển Đông (theo người viết Biển Đông là mặt trận chính). Trung Hoa đã huy động sức mạnh tổng hợp quốc gia, đặc biệt là sức mạnh quân sự cho hướng đông và đông nam. Mỹ cũng bước vào giai đoan ba, giai đoạn hoàn thành việc cơ cấu lại lực lượng quân sự, chuyển 60 sức mạnh quân sự sang châu Á-Thái Bình Dương, tập hợp và củng lực lượng đồng minh cùng với các đối tác nhằm đối phó với Trung Hoa. Về mặt quân sự có thể nói Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng đang diễn ra một cuộc so găng quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cả hai phía đều thúc đẩy xung đột, hay nói đúng hơn tiến hành leo thang một cách có chủ ý. Chưa đến mức chiến tranh nhưng có thể nói là hoàn toàn không bình thường. Tình trạng này sẽ kéo dài trong bao nhiêu lâu còn tùy thuộc vào việc quản lý leo thang xung đột của cả hai bên. Nhưng chắc chắn cả hai bên đều không từ bỏ mục tiêu của mình.
Quan hệ Mỹ-Trung có thể nói từ nay trở đi sẽ là một giai đoạn đầy thách  thức khó khăn đối với cả hai bên. Họ vẫn là đối thủ hợp tác và cạnh tranh, nhưng họ là đối thủ nguy hiểm của nhau, việc canh tranh cũng ngày càng nguy hiểm hơn, nhất là việc cạnh tranh chạy đua về mặt quân sự. Với Trung Hoa, bài học về sự sụp đổ của Liên Xô vẫn còn mang tính thời sự. Với Mỹ, cuộc chiến tranh lạnh như thời kỳ 1950 đến 1991 vẫn còn để lại quá nhiều di chứng. Tuy nhiên, cuộc chiến thầm lặng giữa hai nước thực sự đã bắt đầu. Xét về mặt địa chính trị, Trung hoa chưa được gì ngoài mấy hòn đảo chơ vơ ở Biển Đông. Còn Mỹ thì đang hoàn thành giai đoạn cuối của chiến lược xoay trục (dự kiến đến năm 2020 thì hoàn thành). Thực tế họ có nhiều bài hơn so với Trung Hoa. Và hình như người Mỹ vẫn chưa có ý định đối đầu trực tiếp với Trung Hoa.
So với Mỹ, Trung Hoa ở thế bất lợi hơn.  Trung Hoa đang bị bao vây bởi các nước có quan hệ đồng minh, quan hệ đối tác với Mỹ. Từ Đông Bắc Á đến Đông Nam Á, từ Hàn Quốc, Đài Loan đến Nhật Bản, Phillipines, Úc, và Ấn Độ … Tất cả đang hình thành một thế trận làm phức tạp hơn rất nhiều cho những toan tính của Bắc Kinh. Tại sao Mỹ lại tập hợp được các nước đồng minh và các đối tác như vậy? Vì Mỹ đã đồng nhất được lợi ích của mình với lợi ích của các đồng minh và các nước đối tác- đó là tự do hàng hải phù hợp với luật quốc tế cũng như quyền, quyền chủ quyền và những lợi ích biển hợp pháp của các nước Đông Á.
Để trỗi dậy trở thành cường quốc đứng đầu châu Á như mục tiêu của Trung Hoa, trước khi đối đầu với Mỹ, họ phải khuất phục được Nhật Bản. Hai nước Nhật-Trung đã không thể chung sống hòa bình trong suốt hàng nghìn năm qua. Trong lịch sử cận đại, hiện đại, quan hệ giữa hai nước này có không ít thù hận. Trung Hoa đã từng bị Nhật Bản thống trị. Và giờ đây liệu một Trung Hoa đầy tham vọng muốn chi phối trật tự châu Á và một Nhật Bản hùng cường, với sự lãnh đạo của Chính quyền Shinzo Abe đã và đang thay đổi hiến pháp hòa bình có thể cùng tồn tại mà không xảy ra chiến tranh? Và đứng đằng sau Nhật Bản chắc chắn là Mỹ, liệu hai nước có thể đưa giấc mộng của người Trung Hoa thành giấc mộng hồ điệp?
Cũng như vậy với Ấn Độ, liệu có thể xảy ra một cuộc chiến tranh Trung-Ấn như năm 1962? Đến bây giờ Trung Hoa vẫn còn chiếm đến 20.000 km vuông của Ấn Độ, chắc người Ấn vẫn chưa quên chuyện cũ và hiện tại họ đã chuẩn bị rất kĩ càng cả về mặt lục quân, không quân và hải quân. Đầu tư cho quân sự của Ấn Độ ngày càng ấn tượng cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế. Nếu Trung Hoa là một con rồng thì Ấn Độ là một con voi. Sự thay đổi chính sách chính trị, kinh tế và quân sự của Thủ tướng Narenda Modi thực sự đang cản trở giấc mơ Trung Hoa. Chưa bao giờ quan hệ Mỹ-Ấn gần gụi nhau như ngày hôm nay. Họ cùng chia sẻ cơ sở vật chất quân sự, chia sẻ công nghệ sản xuất máy bay và một số loại vũ khí. Nếu chiến tranh xảy ra, một liên minh Ấn-Mỹ chắc rằng Trung Hoa sẽ không thể chịu đựng nổi.
Trung Hoa có một chính sách có thể chiếm trọn Biển Đông như mong muốn của Bắc Kinh, cách duy nhất sử dụng vũ khí kinh tế và quân sự- thực hiện phương thức xâm lược của chủ nghĩa thực dân cũ (cách thức này họ có gien rồi), cộng với cách thức của chủ nghĩa thực dân mới và chủ nghĩa phát xít (cách thức này họ đã và đang học), khống chế toàn bộ các nước ASEAN như ý định sinh thời của Mao Trạch Đông. Bởi vì có đến sáu quốc gia ven biển có vị trí chiến lược trên tuyến hàng hải quốc tế án ngữ Biển Đông, tất cả các nước đó lại có xu hướng kết bạn với Mỹ để cân bằng trước một con rồng đang hét ra lửa. Nhưng Mỹ cũng đang kéo họ vào một liên minh, tăng cường năng lực quân sự cho các nước. Lực lượng quân sự của Mỹ ở Guam, ở Philippines, ở Darwin… Và từ những địa điểm đáng tin cậy Mỹ sẵn sàng triển khai lực lượng hành động. E rằng con mồi ASEAN quá lớn, nếu Trung Hoa cố nuốt thì vỡ bụng mất.    
Ngay cả Bắc Triều Tiên và Việt Nam, hai nước cùng chung ý thức hệ với Trung Hoa, nhưng chắc chắn hai nước không chấp nhận làm vùng đệm cho Trung Hoa nếu có chiến tranh với Mỹ. Bắc Kinh không thể áp đặt ý chí của mình với Bắc Triều Tiên đang bị cộng đồng quốc tế cô lập, thì Bắc Kinh càng không thể áp đặt ý chí của mình đối với Việt Nam. Nếu Trung Hoa mở rộng sức mạnh biển bằng con đường bành trướng cường quyền thì họ không chỉ vấp phải chiến lược A2/AD ở tất cả các nước láng giềng áp dụng chống lại họ mà còn vấp phải chiến lược ASB gần như vô đối của Mỹ.
Trong các cuộc chiến tranh lớn ở bên ngoài, gần như người Mỹ không khai chiến từ ban đầu, họ thường để cho các đối thủ giao chiến đến một mức độ nào đó rồi mới tham gia. Phải chăng Mỹ đang áp dụng chiêu thức này trước một Trung Hoa đang khoe cơ bắp với các nước láng giềng. Theo Reuter chi tiêu quốc phòng Trung Hoa năm 2016 là 146,67 tỉ đô la, mức tăng liên tục trong hàng chục năm qua. Ngoài Trung Hoa, các nước Đông Á cũng có mức chi tiêu quốc phòng vào loại cao nhất thế giới. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mà các bên đều tăng cường tiềm lực quốc phòng? Người Trung Hoa có truyền thống “quan sơn tọa hổ đấu” và đúng là họ đã đứng ngoài xem Mỹ-Liên Xô đấu nhau gần nửa thể kỉ trước, đứng ngoài xem Mỹ-Khủng bố đấu nhau từ năm 2001 đến nay để hưởng lợi. Bây giờ đã đến lúc họ đấu với Mỹ chưa? Cuộc chiến tranh lạnh Mỹ-Xô đã chấm dứt. Cuộc chiến chống Khủng bố của Mỹ vẫn đang tiếp diễn. Liệu một cuộc chiến Mỹ-Trung hay một cuộc chiến ở châu Á-Thái Bình Dương có xảy ra trong thời gian tới?



Read More

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.