Trở lại Hạ Long

1 comment

 Trở lại Hạ Long

Nhân kỷ niệm Ngày giải phóng Thủ đô (10/10), anh em cựu chiến binh Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 khu vực Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội tổ chức chuyến đi thăm Hạ Long và thực hiện buổi giao lưu với các cựu chiến binh trung đoàn tại Quảng Ninh.
Hơn 8h xe đưa chúng tôi đến nghĩa trang thành phố Hạ Long, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến đi ba ngày. Tại đây chúng tôi làm lễ dâng hương, tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó có các anh hùng liệt sĩ Trung đoàn 3 Sư 324 yêu quý của chúng tôi.
Anh Trung cùng một số anh em cựu chiến binh khu vực Quảng Ninh đã chờ đón đoàn tại nghĩa trang. Anh em chúng tôi tay bắt mặt mừng, cùng nhau nhận đại đội, nhận tiểu đoàn những ngày còn ở chiến trường. Như một thông lệ, chúng tôi ôn lại những kỷ niệm về đồng đội, nói về những người còn mất. Chúng tôi sẽ không bao giờ còn được gặp lại một số đồng đội thân thương nữa. Không nói ra, người nào người nấy lòng nhủ lòng phải dành thời gian cho nhau nhiều hơn. Thời gian đã không còn ủng hộ chúng tôi… Rất tiếc Ban chỉ huy Trung đoàn 3 Sư 324 hiện tại đột xuất phải đi trợ giúp nhân dân Thừa Thiên-Huế chống lũ lụt, nên kế hoạch đến thăm một, hai gia đình liệt sĩ phải hoãn đến lần sau.
Sau khi viếng nghĩa trang, anh Trung thay mặt anh em Quảng Ninh dẫn chúng tôi đi thăm Bảo tàng- Thư viện Quảng Ninh. Bảo tàng- Thư viện nằm bên đường khu vực phía đông thành phố. Khối kiến trúc này là một công trình văn hóa đẹp và là điểm nhấn của khu vực kỳ quan thiên nhiên nổi tiếng: Vịnh Hạ Long, một điểm đến hấp dẫn thu hút đông đảo người dân trong nước và du khách quốc tế.
Phần bên ngoài bảo tàng là một màu đen nhung trên nền biển, trời xanh thẳm của thành phố biển. Cạnh cổng ra vào có một khối than nguyên khối lớn kỷ lục 28 tấn nằm sừng sững cùng với không gian trưng bày các tác phẩm điêu khắc nghệ thuật đặc sắc khác tạo nên ấn tượng ban đầu thật khó quên với chúng tôi.
Bảo tàng gồm 3 tầng, phác họa những nét cơ bản và đặc trưng nhất về vùng đất Quảng Ninh theo không gian và thời gian, từ thời tiền sử đến nay, từ miền rừng núi tới đồng bằng, ven biển biển, một hình ảnh một Việt Nam thu nhỏ với nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, văn hóa. Trái với màu đen bên ngoài, màu trắng là gam màu chủ đạo cho không gian bên trong nhằm làm nổi bật các hiện vật trưng bày trong bảo tàng.
Tầng 1 là không gian của biển cả và thiên nhiên của Hạ Long. Chính giữa trưng bày một con thuyền. Phía trên là bộ khung xương cá voi. Điểm độc đáo của tầng 1 là 4 cột trưng bày dạng ống núi được bao phủ bằng lớp vải mang hình ảnh núi đá vịnh Hạ Long, kết hợp hình ảnh trình chiếu 3 D tạo hiệu ứng nước biển khiến ta có cảm giác như đang đi trong lòng vịnh diễm lệ. Mỗi ống núi là một không gian riêng biểu hiện quá trình kiến tạo địa chất và hệ sinh thái biển, động thực vật đặc hữu của Quảng Ninh.
Tầng 2 có nhiều khu trưng bày các hiện vật, các giá trị văn hóa, lịch sử, đặc biệt là nền văn hóa Hạ Long nổi tiếng. Với thiết kế mô phỏng lòng thuyền, gian đầu là nơi trưng bày các hiện vật khảo cổ các thời kỳ tiền sử, sơ sử cho tới hiện tại. Các gian tiếp theo mô tả đời sống, sinh hoạt của các dân tộc Dao, Tày, Sán Dìu…
Khu vực trưng bày Quảng Ninh thời chống Pháp được thiết kế với rừng cây bao phủ tượng trưng cho Chiến khu Đông Triều anh hùng. Khu vực trưng bày Quảng Ninh thời kỳ chống Mỹ được đặt trong không gian tựa như khoang máy bay, gợi nhớ về chiến công của lực lượng phòng không, không quân từ ngày 5/8/1964…
Không gian văn hóa tâm linh gắn với Yên Tử và thiền phái Trúc Lâm được bố trí ở một khu vực riêng. Tại đây có mô hình chùa Đồng và nhiều hiện vật cổ quý báu. Bên cạnh đó là không gian của các hiện vật di sản nhà Trần ở Đông Triều, mô hình bãi cọc thị xã Quảng Yên, Đầm Nhử… Tất cả gợi lên một Quảng Ninh anh hùng giàu truyền thống.
Không gian cuối cùng là nơi trưng bày hình ảnh Bác Hồ với miền đất Quảng Ninh, nơi Bác về thăm 7 lần. Năm 1946, Bác đã nói: “Vùng mỏ của đất nước ta thật là đẹp và giàu. Thợ mỏ của ta thật vô cùng anh dũng”. Cùng với những tư liệu lịch sử khác, đây là nơi giáo dục truyền thống quý báu cho các thế hệ người dân hôm nay.
Tầng 3 là tầng mô phỏng hệ thống hầm lò khai thác than với thiết kế, kích thước như thật. Du khách được trải nghiệm lịch sử khai thác than từ những ngày Thực dân Pháp khai thác thủ công đến kỹ thuật khai thác than hiện đại ngày nay…
Đúng như anh Trung nói với chúng tôi, Bảo tàng Quảng Ninh là một công trình văn hóa, một sản phẩm du lịch đặc sắc không thể bỏ qua. Với tư cách là cán bộ khối văn phòng trực thuộc thành phố đã nghỉ hưu, anh Trung đã kết nối chúng tôi với người hướng dẫn thuyết minh và trực tiếp thuyết minh cho chúng tôi về quê hương mình với lòng hiếu khách vừa nhiệt tình vừa xúc động, tự hào.
Tiếp theo anh Trung dẫn chúng tôi tới thăm Cung quy hoạch, hội chợ và triển lãm tỉnh Quảng Ninh. Cung quy hoạch, hội chợ và triển lãm Quảng Ninh xây dựng bên trục đường Trần Quốc Nghiễn, nằm trong quần thể kiến trúc chung của thành phố Hạ Long. Công trình này có diện tích đất sử dụng trên 3ha. Đây là một công trình độc đáo.
Công trình có tổng diện tích xây dựng 20.700m2. Nó mô phỏng hình con cá heo vờn con sò biển. Giới chuyên môn đánh giá công trình có thiết kế phá cách, tạo nét kiến trúc rất lạ. Công trình này cùng 9 với công trình xây dựng trên thế giới đã được đăng quang nhận giải thưởng Kiến trúc quốc tế năm 2019.
Đến đây, chúng tôi được anh Trung và hướng dẫn viên giới thiệu chiêm ngưỡng toàn cảnh địa lý, giao thông, hạ tầng, khu kinh tế du lịch của tỉnh Quảng Ninh thông qua hàng chục màn hình trình chiếu và các mô hình, bản vẽ thực tiễn từ những năm 2000 đến năm 2050.
Công trình có 2 khối, được liên kết với nhau bằng hệ thống thang máy, thang cuốn và thang bộ. Khối thứ nhất hình con ngọc trai có 2 tầng sàn dùng để tổ chức các sự kiện, hội chợ, triển lãm và trưng bày quy hoạch vùng. Khối thứ hai có hình một con cá heo khổng lồ với chiều dài 320m, chiều rộng có chỗ tới 45m dùng để trưng bày các đồ án quy hoạch, những công trình kiến trúc, tâm linh tiêu biểu.
Công trình còn là nơi giao lưu văn hóa, tổ chức hội chợ, xúc tiến thương mại trong nước và quốc tế; gắn với các công trình quảng trường 30/10, bảo tàng, thư viện, cung văn hóa thiếu nhi và công viên Lán Bè thành một quần thể du lịch góp phần thu hút du khách ở với Hạ Long nhiều ngày.
Lâu lắm rồi chúng tôi mới được xả hơi thỏa thích, một kiểu vui chơi của tuổi trẻ. Chúng tôi vào phòng chiếu 360 độ để thưởng thức thành tựu khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến hàng đầu của Việt Nam. Tôi nghĩ nó không thua kém là bao so với công nghệ vui chơi, giải trí ở một số bảo tàng của Mỹ tôi đã tới thăm.
Tôi cùng anh chị em cuốn hút vào nhiều trò chơi điện tử hấp dẫn như ở chốn thiên thai. Đặc biệt là trò chơi ở thủy cung. Chúng tôi tô màu vào các sinh vật biển, ký tên mình trên tờ giấy và đưa vào chiếc máy điện tử. Trên màn hình gắn lên bức tường, hiện ra những sinh vật của chúng tôi vừa tô màu đang bơi lượn dưới biển khơi. Chúng tôi chạy đuổi theo với bao cảm xúc. Tiếp đó chúng tôi vào cung nghỉ ngơi bốn mùa… Một địa điểm thật lý thú. Hy vọng hè sang năm, Covid-19 được khống chế hoàn toàn, tôi sẽ đưa các cháu tôi đến đây cùng vui chơi!
Điểm cuối cùng trong ngày anh Trung dẫn chúng tôi đi thăm là con đường bao biển Trần Quốc Nghiễn, đoạn từ cầu Bài Thơ đến điểm nối đường bao biển Hạ Long - Cẩm Phả có tổng mức đầu tư 1.300 tỉ đồng, dài 4,7 km. Mặt đường được nâng cấp từ 4 lên 6 làn xe. Đặc biệt, vỉa hè bên trong rộng 5 m, phía ngoài kết hợp với khuôn viên cảnh quan ngắm vịnh Hạ Long mở rộng 28 m, được thiết kế độc đáo với các hạng mục giải trí ấn tượng. Mọi người phải thừa nhận ở Việt Nam ít có tuyến đường bao biển nào đẹp như con đường Trần Quốc Nghiễn.
Xe đi chầm chậm. Anh Trung giới thiệu cho chúng tôi nghe lịch sử hình thành và xây dựng con đường này. Nơi đây mỗi mùa du lịch sẽ thu hút hàng trăm nghìn lượt người và du khách tới chụp ảnh, vui chơi và đi dạo ngắm vịnh Hạ Long. Bên cạnh đó là những căn biệt thự xinh xắn đẹp đến mê hồn. Những căn nhà và các bãi biển ở Cali tôi được đến thăm cũng không hơn gì nơi đây. Chẳng trách cô bạn cùng trường tôi công tác đã bỏ chốn “phồn hoa thứ nhất Long thành” để tới đây sinh sống. Con đường không chỉ đơn thuần phục vụ về giao thông mà còn là sản phẩm của cái đẹp, sản phẩm du lịch độc đáo của Quảng Ninh…
Kết thúc một ngày đầy ý nghĩa và cảm xúc, tôi thật sự muốn nói lời cảm ơn tới ban tổ chức chuyến đi. Chân thành cảm ơn đồng đội Trung và các đồng đội Trung đoàn 3 khu vực Quảng Ninh. Các anh đã giúp chúng tôi thêm tin yêu vào tình đồng đội, giúp chúng tôi thêm tin vào sự phát triển của Quảng Ninh và của đất nước. Dưới đây là một số ảnh mạng và ảnh của đồng đội:
Read More

Bao giờ nền giáo dục Việt Nam hội nhập với nền giáo dục tiên tiến của thế giới

Leave a Comment

  Tổng thống Mỹ Barack Obama trong thời gian tại nhiệm có phát biểu trước Đại Hội đồng Liên hợp quốc: “Chương trình chống đói nghèo tốt nhất chính là một nền giáo dục đẳng cấp thế giới” (The best anti-poverty program is a world-class education). Có lẽ ông nói đúng. Những nước phát triển hàng đầu (G7), những nước phát triển mới nổi (G20) đương nhiên họ có một nền giáo dục ưu việt. Nhưng còn hơn một trăm quốc gia đang phát triển, những nước thuộc thế giới thứ 3, trong đó có Việt Nam, những nước còn nghèo nàn, lạc hậu thì lấy đâu ra một nền giáo dục ở đẳng cấp thế giới. Mà đói nghèo thì lại là vấn đề của các nước thuộc thế giới thứ 3.

Liệu Việt Nam trong thời gian tới có thể vươn lên sánh vai cùng với các cường quốc năm châu như Bác Hồ từng mong muốn sau cải cách giáo dục lần này?
Tôi không nói đến vấn đề vĩ mô. Không nói đến mục tiêu giáo dục, chương trình giáo dục, nội dung sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy. Chỉ mong học sinh trên dải đất hình chữ S này sắp tới sẽ được hưởng những gì tốt đẹp nhất mà chế độ dành cho các em, và ngành giáo dục không để trẻ em nào bị tụt lại phía sau (cụm từ xuất hiện từ khi Chính quyền Tổng thống George W. Bush ký Dự luật No Child Left behind, tạm dịch là không trẻ em nào bị tụt lại phía sau vào năm 2001) do chính những khiếm khuyết của nền giáo dục chúng ta để lại.
Tôi xin chia sẻ ngắn gọn một số câu chuyện vui buồn mình trực tiếp trải nghiệm để các bạn đồng nghiệp, anh em bạn bè cùng suy ngẫm về kết quả của hai trình độ giáo dục phương Tây và Việt Nam với chính học sinh Việt Nam. Trong các câu chuyện tôi không nêu tên thật của các nhân vật. Và nếu có bạn đọc nào nhận thấy bóng dáng con em mình trong câu chuyện thì xin được lượng thứ, vì đây không chỉ là chuyện cá nhân. Chuyện giáo dục là chuyện của đất nước, chuyện của nhân loại.
Câu chuyện thứ nhất.
Cách đây khoảng 10 năm tôi thường có những chuyến đi dài ngày sang thăm các bang của Mỹ. Nơi đầu tiên tôi đến là khu ký túc xá dành cho các sinh viên nước ngoài theo học thạc sĩ, tiến sĩ và sau tiến sĩ của Trường Đại học Missouri thuộc bang Missouri. Ở khu ký túc xá đó có hơn một chục gia đình sinh viên Việt Nam trong tổng số 70 sinh viên theo học tại trường này.
Các gia đình mang theo con cái sang xứ cờ hoa phải xin cho con học ở các trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Columbia. Chỉ sau một hai năm, tất cả các cháu hội nhập với giáo dục nước sở tại. Tôi được biết phần lớn các cháu đều học giỏi. Trong số đó có cháu Nguyễn Vân Anh, cháu đạt giải Nhì trong cuộc thi toán toàn bang.
Sang nhà chúc mừng bố mẹ và đặc biệt là chúc mừng cháu Vân Anh, tôi đinh ninh ở Việt Nam Vân Anh được xếp loại học lực giỏi và chắc cũng đã được đi thi học sinh giỏi ở trong nước. Cháu cười nói “ Ai cũng nghĩ như thế, nhưng ở Việt Nam cháu chỉ được xếp loại trung bình môn toán thôi. Từ lớp 1 đến lớp 5, cháu chưa bao giờ được đi thi học sinh giỏi. Cháu mới học tiếng Anh năm lớp 6 ở Việt Nam. Tổng kết môn tiếng Anh của cháu 5,3”.
Tôi rất ngạc nhiên. Học tiếng Anh ở Việt Nam một năm thì chưa chắc học sinh đã thuộc và phát âm đúng bảng chữ cái. Vậy mà sang Mỹ chỉ có sau hơn một năm, làm thế nào cháu theo học được, chứ chưa nói đến là đi thi và còn đi thi được giải nữa. Quan trọng hơn cái danh hiệu học sinh giỏi cấp bang là tư thế, phong thái và cách cháu Vân Anh nói chuyện với mọi người. Đó là sự tự tin, hoạt bát, mạnh dạn và tế nhị trong ứng xử, cái mà học sinh của ta cực yếu.
Sau buổi hôm đó Vân Anh dẫn tôi đi thăm trường lớp, gặp gỡ các thầy cô giáo nơi cháu đang theo học, dự giờ tiếng Anh dành cho các học sinh mới đến Mỹ… Một trải nghiệm giáo dục hết sức thú vị.
Về nước, hàng ngày tiếp xúc với học sinh của mình, đôi lúc tôi thầm nghĩ, nếu cháu Vân Anh học ở Việt Nam và nếu gặp tôi không biết cháu Vân Anh sẽ nói chuyện với tôi như thế nào? Liệu sau này cháu có vào được đại học không? Và nếu được vào đại học thì học ở trường nào? Nhiều sinh viên học xong ở Mỹ không muốn về vì họ sợ con không theo được “trình độ” ở trong nước. Chỉ biết học trường phổ thông Mỹ hiện cháu Vân Anh được học bổng toàn phần và đang theo học năm cuối của một trong những trường đại học danh giá nhất của Hoa Kỳ.
Câu chuyện thứ hai.
Vợ tôi có một người bạn tên Triệu Thị Lan, người bạn nối khố từ thủa ấu thơ, đi sang Đức theo chương trình hợp tác lao động. Lan định cư không về nước. Sau khi nhập quốc tịch, vì nhiều lý do cá nhân Lan đã li dị với chồng ở Việt Nam và lấy chồng người Việt ở bên Đức.
Cách đây khoảng mười lăm năm, Lan bảo lãnh cho con, cháu Hải sang bên Đức. Cháu học ở Việt Nam chỉ được xếp loại trung bình. Lan có nhờ tôi lo hộ quyển học bạ của con cho “sáng giá hơn một chút”. Có nghĩa là nhờ anh bạn hiệu trưởng tôi quen biết đánh bóng học bạ của cháu từ trung bình lên tiên tiến.
Bẵng đi một thời gian dài, Lan đưa cháu Hải trở về thăm quê, thăm vợ chồng tôi. Lan cho biết cháu đã tốt nghiệp ở Trường Đại học Hambug, trường đứng ở top đầu của thế giới. Mấy năm học ở trung học phổ thông cháu đều có thành tích xuất sắc và ở đại học cháu còn được nhận học bổng của nhà trường. Nói chuyện với cháu tôi chợt nhận ra nhiều kỹ năng mà học sinh của mình còn quá thiếu.
Tôi rất mừng cho Lan vì nếu cháu cứ tiếp tục theo học ở cái trường làng mà tôi biết, với cái sức học trung bình thì chưa chắc cháu đã thi đỗ vào trung học phổ thông, chứ chưa nói đến vào đại học, lại còn nhận được học bổng nữa. Lúc đó tôi phân vân suy nghĩ có lẽ cũng giống như trường hợp cháu Vân Anh đó chỉ là trường hợp cá biệt.
Câu chuyện thứ ba.
Tôi có một đồng nghiệp tên là Nguyễn Thị Hoa. Cô là giáo viên dạy giỏi, có giọng hát hay và từng đoạt giải hoa hậu ngành giáo dục địa phương. Thế nhưng cuộc sống gia đình riêng của Hoa rất lận đận. Hai vợ chồng Hoa sớm chia tay nhau sau hơn một chục năm chung sống.
Một thân một mình nuôi con. Bao nhiêu tình cảm dồn cả vào con. Nhưng bất hạnh cho Hoa là cháu Thịnh học hành rất chểnh mảng. Không tháng nào là tháng Hoa không phải lên văn phòng gặp giáo viên chủ nhiệm và ban giám hiệu. Có lần nước mắt lưng tròng Hoa nói với tôi: “Thầy bảo em phải làm gì cho con em bây giờ?”
Thật ái ngại, nhưng tôi chỉ biết động viên Hoa hãy cố gắng hiểu con hơn nữa, chịu khó dành thời gian cho con hơn nữa. Năm đó cháu không thi được vào trung học phổ thông. Hoa phải xin cho vào học tại một Trung tâm Giáo dục Thường xuyên. Mọi người đều ái ngại cho Hoa. Con vào học ở một “trường bổ túc” thì phía trước là một tương lai xám xịt.
Thật may mắn, Hoa quen một giáo sư Mỹ sang Việt Nam dạy ở Trường Đại học Kinh tế Quốc dân. Họ tìm hiểu nhau và tổ chức lễ cưới ở Hà Nội. Sau đó hai người về Mỹ đem cả cháu Thịnh đi cùng.
Năm đó Hoa xin tôi nâng học bạ môn toán và một số môn học khác từ tổng kết 4,5 lên 7. Tôi cứ nghĩ rằng cháu Thịnh khó có thể theo học được ở bên Mỹ. Chỗ đồng nghiệp và tình nghĩa thầy trò nên tôi đã nâng điểm để cháu dễ dàng được theo học ở bên kia bán cầu. Trong thâm tâm tôi vẫn áy náy. Làm sao có thể qua mặt người ta. Họ sẽ nghĩ gì về nền giáo dục của mình. Vậy mà không ngờ cháu Thịnh theo học hết phổ thông trung học ở bang Texas. Không những theo học, cháu Thịnh còn được nhận vào học Trường Đại học Texas, một trường đại học danh tiếng của Mỹ.
Điều tôi ngỡ ngàng là khi về Việt Nam, cháu Thịnh gặp lại tôi và các thầy cô thì không còn là một cậu bé chỉ biết cúi đầu trơ lì, im lặng. Đó là một thanh niên cao lớn đầy sức sống, một thanh niên hoạt bát, tự tin. Cháu kể lại quá trình học tập của mình bên Mỹ như thế nào, quá trình hòa nhập với trường lớp, các bạn ra sao… Đặc biệt cháu còn trình bày dự định của mình sau khi tốt nghiệp đại học, sẽ trở về Việt Nam thành lập một doanh nghiệp. Lần về nước này, cháu bắt đầu tìm hiểu và nghiên cứu thị trường để năm sau có thể bắt tay ngay vào công việc.
Tôi không thể tin nếu không một vài lần được đến thăm mô hình trường công, trường tư ở Texas. Chia vui và chúc mừng Hoa, chúc mừng cháu Thịnh, nhưng tôi cảm thấy mình đã có lỗi với cháu. Sau bốn năm dưới mái trường trung học cơ sở, tôi và tập thể giáo viên đã thất bại. Điều gì đã làm thay đổi một học sinh tưởng như không còn hy vọng trở thành một con người mà bất cứ một người mẹ, một nhà trường nào cũng lấy làm tự hào. Chẳng lẽ đây cũng lại là một trường hợp cá biệt?
Câu chuyện thứ tư.
Tôi có một người bạn, hiện gia đình anh định cư ở một nước Bắc Âu. Năm nào anh cũng trở về Việt Nam thăm người thân và dự hội lớp đầu xuân. Lý do anh định cư ở Bắc Âu không phải vì cuộc sống túng bấn. Có lần anh tâm sự với tôi: “Anh là nhà giáo nên dễ thông cảm với vấn đề của tôi. Con đầu tôi không đỗ đại học. Con thứ hai không thi được vào trung học phổ thông. Con thứ ba đi họp phụ huynh cuối năm, cô giáo cho biết thuộc nhóm đội sổ. Thật buồn! Bao ngày đêm trăn trở. Tương lai của gia đình tôi sẽ ra sao đây? Con cháu tôi rồi sẽ ra sao đây? Tôi buộc phải ra đi anh ạ…”
Tôi biết hai cháu đầu của anh đã tốt nghiệp đại học, đều là kĩ sư đi làm ổn định với mức lương trên bảy ngàn Euro. Cháu thứ ba đang theo học sau đại học. Với tư cách là một nhà quản lý giáo dục, tôi không biết phải lý giải trường hợp này thế nào. Chẳng lẽ đây cũng lại là một trường hợp cá biệt nữa?
Câu chuyện thứ năm.
Ở làng tôi, làng Triều khúc, nhiều người đều biết hai anh em nhà ông Phạm Xuân Lưỡng. Hai ông “chạy” để con cái sang hết Canada trong tình trạng cháu thì không vào được đại học, cháu thì không vào được phổ thông trung học. Ông chú tôi là bạn của hai người có lần đã nói với tôi “Không hiểu chúng nó sang bên ấy sẽ làm cái gì”?
Tôi được biết các cháu sang Canada nương nhờ vào một người bạn của hai ông. Nhưng các cháu vừa học, vừa phải đi làm, làm đủ các công việc kể cả đi đào giun ở cái xứ xa lạ, không có cha mẹ chăm sóc. Thấm thoắt hơn chục năm sau bốn cháu đều đã tốt nghiệp đại học, trở thành kỹ sư, kiến trúc sư, bác sĩ. Các cháu vừa bảo lãnh cho mấy đứa em họ không thi được vào trường PTTH sang Canada. Các cụ nhà ta thường nói đầu xuôi đuôi lọt, tôi tin trong tương lai các cháu đó sẽ đều vào đại học.
Tôi không biết giải thích trường hợp này như thế nào theo tư duy của giáo dục Việt Nam. Chắc chắn đây không phải là một hiện tượng đơn lẻ nữa.
Câu chuyện thứ sáu
Mùa hè năm trước tôi có sang bang California hơn một tháng. Tôi có dịp thăm một số tập đoàn lớn tại thung lũng silicon (Xin xem bài Thăm Thung lũng silicon trong trang Facebook này cách đây hơn một năm). Tình cờ tôi gặp vợ chồng cô bạn sang thăm con. Tôi biết cháu Chí từ thời còn học phổ thông trung học. Chí là người có cá tính, thông minh, nhưng các trường đại học ở Việt Nam không chấp nhận cháu. Cháu quyết tâm theo học tiếng Anh và xin sang học ở một trường đại học Mỹ. Cháu theo học khoa học máy tính. Tốt nghiệp đại học Chí tiếp tục xin học tiến sĩ khoa học máy tính. Nhà trường không cho học bổng theo học đúng chuyên ngành, nhưng khuyến khích cho học bổng theo học công nghệ sinh học. Sau 5 năm Chí đã xuất sắc hoàn thành luận án tiến sĩ. Hiện cháu đang làm cho một trong những tập đoàn danh giá nhất ở Thung lũng Silicon.
Cũng ở Thung lũng Silicon, tôi có dịp gặp một số thanh niên Việt đang làm việc ở tập đoàn Facebook, Google, Yahoo… Hàng nghìn sinh viên Việt đang làm việc tại thung lũng này. Họ đều là những kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ vừa tốt nghiệp các trường đại học Mỹ. Tôi được biết không ít người trong số họ không đủ điểm để vào học đại học ở Việt Nam. Thậm chí một số cháu còn phải sang bên Mỹ học tiếng Anh trước khi xin vào học các trường đại học Mỹ. Nhưng tại sao những học sinh thất bại ở Việt Nam lại thành công ở xứ người. Họ trở thành những con người xuất sắc làm việc ở “ bộ não khoa học kỹ thuật” của nước Mỹ và của cả nhân loại?
Câu chuyện thứ bẩy.
Tôi có người bạn đồng ngũ. Anh xây dựng gia đình muộn hơn bạn bè. Bù lại con đường công danh sự nghiệp của anh khá suôn sẻ. Anh được nhà nước cử sang làm đại sứ quán ở một nước phương Tây. Theo tiêu chuẩn anh được phép mang gia đình đi theo. Trong nhiệm kỳ công tác, hai cháu theo anh sang học ở một nước có nền giáo dục tiên tiến hàng đầu thế giới.
Hết nhiệm kỳ cháu lớn ở lại nước ngoài học đại học. Cháu thứ hai trở về nước. Một hôm anh đến nhà tôi, chưa kịp ngồi xuống anh đã thốt lên: “Tôi chết dở rồi anh ạ. Đứa thứ hai nhà tôi không thể học được ở Việt Nam. Toàn bị điểm kém. Xin chuyển trường mấy lần rồi vẫn không ổn. Nó cứ nằng nặc đòi sang bên kia học. Không khéo tôi phải bán nhà lấy tiền cho nó sang học bên kia mất”. Tôi trả lời anh: “Làm gì đến nỗi ấy. Cứ bình tĩnh. Tôi biết cháu được điểm A tất cả các môn học ở trường Tây mà”.
Hết năm học đó anh gọi điện báo cho tôi biết đã bán ngôi nhà trong nội thành để mua một ngôi nhà ở ngoại thành. Và con anh đã được gửi sang bên kia học. Tôi bắt đầu tin vào tác giả cuốn sách “Cú sốc tương lai” của Mỹ nói về hậu quả giáo dục con em những gia đình phải di chuyển khỏi nơi cư trú.
Câu chuyện thứ tám (bởi bài viết đã quá dài tôi xin gộp bốn năm câu chuyện trong một câu chuyện cuối này).
Ba mươi năm làm cán bộ quản lý ở trường công tôi thấy đã quá đủ. Tôi xin về hưu sớm để làm cán bộ quản lý cho một, hai trường tư thục bán quốc tế. Trải nghiệm đau lòng và cay đắng nhất trong thời gian đó là tôi phải chia tay với một số học sinh Việt Nam theo học ở những nước tiên tiến chuyển về trường tôi. Các em phải bỏ học vì bị sốc “văn hóa học đường” và vì không chịu nổi các loại áp lực của trường trung học cơ sở và trường trung học phổ thông ở Việt Nam, mặc dù các em là học sinh giỏi của các nước tiên tiến hàng đầu thế giới.
Tiêu biểu trong số những em học sinh đó là em Đinh Thị Thảo My. Em là một học sinh gái thông minh, có khả năng về toán học, hội họa và thích viết văn. Điều tôi trân trọng nhất ở em là khả năng tự học qua các sách giáo khoa toán học, khoa học của Anh, Singaporo bằng tiếng Anh. Đặc biệt là khả năng tự học qua các trang mạng nổi tiếng như Khan Academy. Com. Ở trường tôi, các bài kiểm tra môn khoa học tự nhiên em thường được điểm 8, 9. Bố mẹ em đều là những trí thức dạy ở những trường đại học của Anh, Singapore và Việt Nam.
Em Thảo My học ở nước ngoài cho đến hết lớp 6. Về nước, mới đầu em học ở trường công, trường công thứ nhất, trường công thứ hai, rồi trường công thứ ba. Với cả ba trường công ở một quận, em đều không thể tạo ra được mối quan hệ với trường lớp mới, thầy cô mới, bạn bè mới. Mỗi ngày đi học em đều cảm thấy rất nặng nề. Giờ học nào, ngày nào cũng phải nghe thầy cô giảng giải và ghi chép đến rụng rời tay, rồi lại còn phải làm một đống bài tập.
Em luôn cảm thấy căng thẳng, căng thẳng đến không thể chịu đựng được. Có lần em hét lên trong lớp. Em còn có cảm giác bị bỏ rơi. Em chỉ mong chóng được về nhà, đóng cửa đi nằm, sống với thế giới riêng của mình. Dần dần em xin nghỉ học một buổi trong tuần, rồi hai buổi, rồi nghỉ học hẳn. Em muốn bố mẹ dạy em ở nhà, cắt đứt mối quan hệ với ngôi trường công thứ nhất, ngôi trường thứ hai, rồi đến ngôi trường thứ ba.
Em nói với bố mẹ, thầy cô ở các trường đó đều không thân thiện, không công bằng như ở nước ngoài. Thậm chí dạy tiếng Anh còn dở òm. Bố mẹ em rất lo lắng, xin cho Thảo My vào học ở trường tôi đang công tác, ngôi trường tiệm cận quốc tế song ngữ với hi vọng môi trường tư thục mới sẽ khiến em thích đến trường. Nhưng học ở trường tôi, em cũng chỉ chịu được ba tháng.
Em không chịu đeo khăn quàng đỏ. Em không chịu kí vào tờ cam kết thực hiện an toàn giao thông. Em không chịu kí vào tờ cam kết không sử dụng và tàng trữ ma túy. Em không tham gia vào bất kì cuộc thi nào do ngành giáo dục phát động. Em nói với cô chủ nhiệm em không thích, nên không phải kí hay tham gia những điều em không thích. Em còn xin không học một số môn học mà em không phải học ở nước ngoài... Nói tóm lại là, em không thích ứng được với môi trường giáo dục Việt Nam.
Dù là trường áp dụng chương trình tiệm cận quốc tế, nhưng trường tôi vẫn là trường của Việt Nam. Chúng tôi vẫn phải tuân thủ theo chương trình, nội dung giáo dục của Việt Nam. Tôi khuyên bố mẹ Thảo My, bố mẹ mấy em học sinh học ở Anh, ở Đức và ở Singapore nên cho các em trở lại ngôi trường cũ ở nước ngoài, hoặc xin vào học ở một trường quốc tế hoàn toàn theo khung chương trình quốc tế. Nhưng phần lớn các bậc phụ huynh đều lắc đầu, không có điều kiện kinh tế để theo hướng đó. Tôi không biết bây giờ các em ra sao nữa.
Qua những trải nghiệm như trên tôi không biết kết luận giáo dục của người ta đi đúng hướng hay giáo dục của mình đi đúng hướng. Vấn đề không phải hoàn toàn vì chúng ta nghèo nên cánh cửa vào PTTH chỉ tiếp nhận khoảng 70% học sinh THCS, còn cánh cửa đại học, cao đẳng chỉ tiếp nhận được khoảng 30-40 % thí sinh thi có điểm cao mà thôi. Ba môn thi bình quân mỗi môn 8 điểm vẫn trượt đại học…
Vấn đề là con em chúng ta học ở các trường nước ngoài đều ổn. Nhưng con em người nước ngoài không học được trường của Việt Nam. Con em các nước phương Tây sống ở Việt Nam đều học tại trường của Liên hợp quốc (ở phố Liễu Giai, Hà Nội). Người Nhật sang Việt nam con em họ học ở trường Việt-Nhật (học sinh Việt Nam cũng xin theo học ở trường này). Người Hàn sang Việt Nam con em họ học ở trường Hàn Quốc (người Việt cũng xin theo học ở trường Hàn Quốc)… Không một học sinh nước ngoài nào học ở trường phổ thông của Việt Nam.
Vấn đề là giáo dục của chúng ta không phát huy được phẩm chất, năng lực của học sinh. Những sản phẩm giáo dục “không có chất lượng cao”, thậm chí những sản phẩm bị lỗi, bị loại ở Việt Nam tại sao lại tỏa sáng ở xứ người? Và những sản phẩm có chất lượng ở các nước tiên tiến lại tàn lụi trong nền giáo dục của chúng ta? Vậy hệ thống đánh giá giáo dục thuần dựa trên thi cử, thuần dựa trên điểm số của ta là đúng hay không ổn? Liệu nền giáo dục còn lạc hậu của chúng ta có đánh mất một nguồn lực trí tuệ của hàng vạn, hàng triệu học sinh Việt Nam trong mấy chục năm qua?
Tôi không dám nói là nền giáo dục của chúng ta đã đi chệch hướng như một số giáo sư đã nhận định. Nhưng tôi chắc chắn rằng ông Obama đã đúng. Chương trình chống đói nghèo tốt nhất chính là một nền giáo dục đẳng cấp thế giới. Giáo dục không chỉ xóa đói giảm nghèo mà còn thay đổi số phận của con người, thay đổi số phận của một dân tộc. Hy vọng rằng lần cải cách giáo dục này chúng ta sẽ không lỡ nhịp với dòng chảy giáo dục tiên tiến của thời đại.
Read More

Liệu cải cách giáo dục có đáp ứng được yêu cầu

1 comment

 Liệu cải cách giáo dục có đáp ứng được yêu cầu

Năm học 2020-2021 mới bắt đầu. Đây là năm học đầu tiên ngành giáo dục thực hiện cải cách giáo dục. Mặc dù rút kinh nghiệm khá nghiêm túc những mặt đã làm được, những mặt chưa làm được về mục tiêu, nội dung chương trình, sách giáo khoa, hình thức thi cử… nhưng cuộc cải cách lần này vẫn khiến người ta băn khoăn, hoài nghi về kết quả của nó.
Cũng chính từ những băn khoăn, hoài nghi, thậm chí tranh cãi từ cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội đến dư luận xã hội và các cơ sở giáo dục mà chương trình cải cách giáo dục được ban hành từ năm 2018, định áp dụng từ năm 2019, đến năm học này mới chính thức bắt đầu ở lớp 1; năm 2021-2022 mới áp dụng cho lớp 2 và lớp 6; năm 2022-2023 mới áp dụng cho lớp 3, lớp 7 và lớp 10; để rồi tiếp sau hai năm nữa, hết năm học 2024-2025 mới cuốn chiếu hoàn thành.
Theo như tôi được biết, điểm mới nhất của cải cách lần này (tôi gọi là lần cải cách thứ 4) là: i, các nhà hoạch định chính sách đã xem xét lại mục tiêu phù hợp với Luật giáo dục mới năm 2019; ii, xây dựng một chương trình áp dụng cho toàn quốc nhưng có nhiều bộ sách; iii, giáo dục hướng tới phát huy phẩm chất, năng lực cho học sinh; iiii, giảm tải kiến thức hàn lâm (có môn tới 30-40%); iiiii tăng cường vận dụng kiến thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống qua các bài học có hệ thống…
Mặc dầu công việc chuẩn bị và triển khai khá chu đáo và thận trọng nhưng tôi không quá kì vọng vào cuộc cải cách lần này. Người ta đã làm cho xã hội thất vọng hai lần rồi. Những nhà hoạch định chính sách, những nhà giáo dục, những nhà quản lí, sản phẩm của một nền giáo dục bút lông và bút sắt, sản phẩm của một xã hội nông nghiệp mới bước vào xã hội công nghiệp đã để lại đậm dấu ấn của một nền giáo dục cũ và lạc hậu trong hai đợt cải cách vừa qua. Còn thế hệ mới, trên cơ sở của nền giáo dục hiện thời đã tham khảo các nền giáo dục tiên tiến và mới bắt đầu đi bước đầu tiên ở lớp 1. Hãy chờ xem ngành giáo dục sẽ làm được gì trong thời gian một năm tới (đương nhiên là còn phải chỉnh sửa)
Dự kiến kinh phí ban đầu cho đợt cải cách giáo dục lần thứ 4 này là trên 70 nghìn tỉ. Thậm chí đến hàng trăm ngàn tỷ mà vực dậy được nền giáo dục vốn lạc hậu và xuống cấp như hiện tại thì thật quá tốt. Vấn đề là nó không phụ thuộc nhiều vào kinh phí, phụ thuộc vào việc học cái gì mà phụ thuộc vào cơ chế giáo dục, phụ thuộc vào con người giáo dục, phụ thuộc vào cách thức học như thế nào và học để làm gì.
Có thể tôi đã quá thận trọng vì những sai lầm trong cải cách giáo dục trước đây. Lần cải cách đầu tiên, cải cách lần thứ nhất vào năm 1956, sự nghiệp giáo dục phổ thông của đất nước chúng ta, theo tôi đánh giá là khá thành công với hệ thống giáo dục 10 năm. Cấp 1 bốn năm, từ lớp 1 đến lớp 4. Cấp 2 ba năm, từ lớp 5 đến lớp 7. Cấp 3 ba năm, từ lớp 8 đến lớp 10.
Mục tiêu giáo dục, chương trình giáo dục, nội dung giáo dục và sách giáo khoa trong đợt cải cách lần thứ nhất sau khi miền Bắc vừa được giải phóng, lẽ đương nhiên mang dấu ấn của nền giáo dục Xô Viết, thiên về lý thuyết hàn lâm, nhưng với sự sáng tạo cùng với kinh nghiệm của nền giáo dục thời thuộc địa, các nhà hoạch định chính sách, những người tổ chức thực hiện cùng với đội ngũ nhà giáo trong thời gian đó đã “đảm bảo yêu cầu giáo dục, yêu cầu khoa học, dân tộc và đại chúng”. Họ đã góp phần xứng đáng tạo nên một thế hệ, thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và sứ mệnh của dân tộc giao cho, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vừa hoàn thành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam.
Năm 1975 đất nước thống nhất. Hai miềm Nam, Bắc có hai hệ thống giáo dục khác nhau. Sau nhiều lần sửa đổi chắp vá, chúng ta đã quá vội vàng với cải cách lần thứ 2 và lần thứ 3 . Hai lần cải cách sau, tôi được chứng kiến và trực tiếp tham gia. Cả hai cuộc cải cách đều mang tính chủ quan, duy ý chí; áp đặt từ trên xuống tới cấp cơ sở với tư duy nóng vội, đi tắt đón đầu để bắt kịp các nước tiến tiến về khoa học kỹ thuật (một ảo tưởng).
Cuộc cải cách lần thứ 2 bắt đầu vào những năm 80 của thế kỉ trước. Cuộc cải cách bắt đầu trong bối cảnh đất nước bắt đầu lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện về kinh tế và xã hội. Lương hiệu phó của tôi không mua nổi 10kg gạo ngoài thị trường. Hàng hóa, lương thực thực phẩm thiếu trầm trọng. Nhiều gia đình nông dân sáng ăn tạm củ khoai, củ sắn. Trưa đi làm về, thời gian giáp hạt phải ăn cháo. Đời sống giáo viên lúc đó cùng cực nhất. Nhiều giáo viên phải bỏ nghề. Vậy mà người ta vẫn cứ quyết định cải cách.
Nghe các cấp phổ biến cải cách giáo dục ai cũng lo lắng. Mục tiêu giáo dục đặt ra cao vòi vọi. Phải giúp học phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ; phải có tri thức tiên tiến về khoa học tự nhiên, về xã hội, về con người; phải có các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành con người Việt Nam Xã hội chủ nghĩa... Trong khi đó, điều kiện cơ sơ vật chất không có cái gì để thực hiện cải cách giáo dục. Trường không ra trường, lớp không ra lớp. Không đủ giáo viên bộ môn. Không có giáo viên chuyên thể dục, âm nhạc, mỹ thuật. Chương trình và sách giáo khoa thì như để đào tạo ra những nhà khoa học…
Hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm kéo dài thêm, chuyển sang hệ thống giáo dục 12 năm giống như hệ thống giáo dục miền Nam cũ. Cấp 1 sáp nhập với cấp 2 thành cấp phổ thông cơ sở từ lớp 1 đến lớp 9. Cấp 3 chuyển thành cấp phổ thông trung học từ lớp 10 đến lớp 12.
Cuộc cải cách này được bắt đầu từ lớp 1. Người ta xóa bỏ phương pháp giáo dục của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, người đã đưa ra giải pháp khoa học về học thuật lẫn thực tiễn, gọi tên chữ theo âm. Phương pháp này đã sử dụng trong ”Phong trào bình dân học vụ” để xóa bỏ nạn mù chữ của 95% dân số Việt Nam sau năm 1945. Những người làm cải cách giáo dục đã sáng tạo ra cách đánh vần mới: đánh vần âm giữa và cuối trước, sau đó mới ghép phụ âm đầu vào thành tiếng. Họ đưa cả khái niệm nguyên âm và phụ âm vào cho đứa trẻ 6 tuổi học. Đồng thời họ chủ trương bỏ tất cả các nét phụ của hệ thống chữ cái và lần đầu tiên đưa các khái niệm toán học phức tạp vào lớp 1.
Kết quả sau năm học đầu triển khai cải cách đã có vài trăm ngàn học sinh lưu ban lớp 1 và một thế hệ chữ viết như que củi nguệch ngoạc ra đời. Cứ thế, họ cuốn chiếu chương trình cải cách vội vàng, duy ý chí và nhiều sai lầm cho đến hết lớp 12 với bao hệ lụy đáng buồn đến ngày nay cho ngành giáo dục.
Sai lầm đầu tiên là người ta quá tham vọng về mục tiêu giáo dục trong điều kiện không có cơ sở vật chất. Từ tham vọng mục tiêu đã dẫn đến chương trình và sách giáo khoa quá nặng, quá tải, quá sâu. Tiếp đến là sai lầm trong việc đánh giá kết quả giáo dục học sinh dựa trên điểm số và thi cử. Chế độ kiểm tra và thi cử hết sức nặng nề diễn ra từ lớp 1 đến lớp 12. Đầu điểm lớp 5 hàng tháng lên tới 20 đầu điểm; lớp 9 và lớp 12 có môn tính theo hệ số, một học kì có tới 15 đầu điểm. Rồi thi tốt nghiệp lớp 5, thi tốt nghiệp lớp 9, thi tốt nghiệp lớp 12, thi đầu vào lớp 6, thi tuyển vào lớp 10, thi đại học cao đẳng…
Ở các thành phố lớn, với trình độ sư phạm hạn chế, cán bộ quản lí từ trên xuống cấp trường đua nhau cổ vũ tổ chức cho học sinh học và thi vào trường chuyên, lớp chọn. Chế độ đánh giá dựa trên điểm số, chế độ kiểm tra thi cử nặng nề với sự giám sát, kiểm tra nghiêm ngặt, cùng với những sáng tạo tự biên tự diễn thiếu hiểu biết đầy đủ trong giáo dục, trên thế giới có lẽ chỉ có ở Việt Nam.
Người ta đã sửa đổi nhiều khuyết tật của cách cách giáo dục lần thứ hai. Tuy nhiên những cái sai không thể sửa được cũng vẫn còn tồn tại. Và rồi như để bào chữa cho sự nóng vội, có thể nói là sự thất bại của cải cách giáo dục lần thứ 2, bắt đầu từ năm học 2001- 2002, người ta bắt đầu cải cách giáo dục lần thứ 3.
Cải cách lần này diễn ra trong bối cảnh đất nước vừa bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội. Yêu cầu đặt ra cần phải cải cách giáo dục là đúng. Điều kiện tiền đề để cải cách giáo dục có thể nói là có cơ sở. Nhưng vẫn những con người cũ với lối tư duy của một thời gian dài ảnh hưởng của nền giáo dục Xô Viết, vẫn tập thể tác giả ấy, vẫn hội đồng thẩm định ấy, họ triển khai đồng loạt cải cách giáo dục với một tham vọng to lớn hơn, hoành tráng hơn cả về mục tiêu lẫn nội dung chương trình so với lần cải cách thứ 2 để “cho ngang tầm với thời đại”.
Nghe thì có vẻ hợp lí. Nội dung có vẻ khoa học lắm. Thầy cô phấn khởi lắm. Nhưng kết quả thật đáng buồn. Có địa phương buổi sáng học sinh học lớp 2, buổi chiều học lại lớp 1 vì chưa biết đọc biết viết. Chương trình toán học, văn tiếng việt từ lớp 1 đến lớp 12 đều quá nặng, quá tải, quá sâu. Có chuyên gia giáo dục nước ngoài nhận xét bộ sách giáo khoa toán cấp trung học “rất khoa học, rất logic, nhưng rất đáng tiếc đó là giáo trình đại học thu gọn lại”. Chương trình vật lí, hóa học, sinh học, ở các cấp đều nặng tính hàn lâm, cổ điển.
Chương trình học phân ban 90% học sinh không hưởng ứng. Hay nói chính xác là 90% học sinh chỉ học ban cơ bản, chỉ có 3% học sinh chọn ban xã hội. Có thể nói cuộc cải cách lần thứ 3 là sự thất bại thảm hại. Hậu quả việc dạy thêm, học thêm diễn ra tràn lan từ thành thị tới nông thôn. Chủ nghĩa điểm số, hình thức thi cử ngày càng nặng nề. Bệnh thành tích kèm theo sự giả dối trong thi cử đi song hành với các trường học (với mục tiêu, nội dung chương trình như quy định dù học thêm cả ngày lẫn đêm, từ lò luyện trường, lò luyện thi các trung tâm đến các lò luyện thi ở hang cùng ngõ hẻm, chất lượng đại trà giỏi lắm cũng chỉ đạt 50%, nhưng chúng ta đã “phù phép” để có được thành tích từ 85 đến 100% thi đỗ tốt nghiệp các cấp).
Những năm 1960, 1970 giáo dục Việt Nam có quyền ngẩng cao đầu với các nước bạn bè, với các nước xung quanh, còn từ những năm 1980 đến bây giờ thì sao? Trong bảng xếp hạng của thế giới càng những năm về sau, Việt Nam ngày càng tụt hạng, chỉ trừ thành tích thi cử gà nòi (Theo bảng xếp hạng mới nhất của thế giới, top 10 theo thứ tự từ 1-10 gồm có Anh, Mỹ, Canada, Đức, Pháp, Úc, Thụy Sỹ, Thụy Điển, Nhật Bản, Hà Lan. Ở khu vực Đông Nam Á: Singapore xếp thứ 20, Malaysia (44), Thái Lan (53), Philippines (55), Indonesia (56), Việt Nam (65/80). Có nghĩa là chúng ta ở vị trí áp chót bảng xếp hạng. Xếp trên Lào và Cămpuchia hiện tại. Trong tương lai thì chưa chắc vì năng lực ngoại ngữ của học sinh chúng ta còn kém họ). Sao giáo dục Việt Nam lại đến nông nỗi này? Kết quả 15, 16 năm dưới mái trường, không biết bao nhiêu học sinh, sinh viên trình độ thầy không ra thầy, thợ không ra thợ?
Tôi không trích dẫn những nhận xét về cải cách giáo dục của nhiều giáo sư có tên tuổi vì lời lẽ quá gay gắt, nặng nề. Chỉ xin được trích dẫn lời của Giáo sư Hoàng Tụy, một trong hai người khai sinh ra nền toán học Việt Nam, cha đẻ của toán tối ưu hóa toàn cục trong toán ứng dụng của thế giới:
"Giáo dục là một hệ thống phức tạp, theo nghĩa khoa học của từ này, cần phải được tiếp cận và vận hành như một hệ thống phức tạp mới có hy vọng tránh khỏi sai lầm, thất bại. Lãnh đạo, quản lý giáo dục mà thiếu tư duy hệ thống, thiếu một tầm nhìn chiến lược bao quát thì chỉ có sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, "đổi mới" liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều công sức tiền của mà kết quả chỉ làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, thiếu sinh khí, thường xuyên trục trặc... Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn lĩnh vực giáo dục. Cũng không đâu cần tư duy phê phán, cần tự do, sáng tạo hơn ở đây. Một nền học thuật đã thiếu vắng đạo đức và đức tính cơ bản ấy tất nhiên sớm muộn cũng biến chất và lâm vào bế tắc. Khi ấy những điều chỉnh cục bộ theo kiểu đổi mới từng việc vụn vặt như vừa qua không những không có tác dụng mà còn làm kéo dài thêm tình trạng trì trệ. Lúc này lối ra duy nhất cho giáo dục là cải tạo cấu trúc, xây dựng lại từ gốc, thay đổi cả thiết kế hệ thống. Chỉ có như thế mới mong cứu giáo dục thoát ra khỏi khủng hoảng triền miên."
Cải cách giáo dục lần thứ 4 bắt đầu vận hành. Người ta đã có sự tham khảo sâu rộng các nền giáo dục tiên tiến và theo hướng phát huy phẩm chất năng lực người học. Điều kiện cơ sở vật chất trường lớp, đội ngũ giáo viên dù còn phải bàn nhưng có thể nói là tạm đáp ứng được. Trên hết là yêu cầu của thời đại công nghiệp 4.0 đang đặt ra một cách cấp thiết cần phải cải cách giáo dục. Liệu cải cách giáo dục lần này chúng ta có bỏ lỡ cơ hội? Tôi nghĩ không chỉ có ngành giáo dục vào cuộc mà toàn đảng, toàn dân đều phải vào cuộc một cách quyết liệt.
Trước mắt, theo tôi cần thay đổi nhận thức, đổi mới phương pháp giáo dục, xóa bỏ được quan niệm học để đi thi. Chấm dứt tình trạng học nhồi nhét, tình trạng thày trò từ lớp 1 đến lớp 12 hết năm này sang năm khác gồng mình lên, học trong trường, học ngoài trường, học ngày học đêm, học thêm đủ hình thức theo khối lượng tri thức để đi thi. Học sinh học để đi thi, ngoài ra không biết học để làm việc gì khác. Ngành giáo dục cũng như toàn xã hội phải thật sự thấm nhuần phương châm của Bác dạy học phải đi đôi với hành, phương châm của Liên Hợp Quốc đề ra: Học để biết, học để làm việc, học để hòa nhập, học để tự khẳng định mình.
(Kết thúc bài viết tôi vừa nhận được một thông tin, học sinh lớp 1 năm nay phải cõng tới 23 đầu sách với giá hơn 800.000 đồng một bộ. Tôi nghĩ đây là một cảnh báo nguy hiểm. Cần phải xem xét lại cái nào đúng cái nào sai. Nếu không, cứ cái đà thì lại nhồi nhét sách giáo khoa, nhồi nhét kiến thức, lại làm mất đi tuổi thơ, làm mất đi khả năng tự học, khả năng sáng tạo của học sinh; lại biến các em thành những người thụ động trong khi tuổi của các em cần nhiều thời gian để chơi).
Nguyen Thi Kieu Van, Phan Thế và 79 người khác
73 bình luận
23 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ
Read More

Cảm nghĩ về kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông trong những ngày đại dịch Covid-19

Leave a Comment

 Cảm nghĩ về kỳ thi tốt nghiệp Trung học phổ thông trong những ngày đại dịch

Ngày 27 tháng Tám Bộ Giáo dục công bố điểm thi tốt nghiêp THPT năm 2020. Với Việt Nam đây là kỳ thi rất quan trọng, một sự kiện lớn của ngành giáo dục, được cả xã hội quan tâm. Nhiều người gọi đây là kỳ thi 2 trong 1, được gộp Kỳ thi tốt nghiệp THPT và Kỳ thi tuyển sinh đại học và cao đẳng nhằm giảm tình trạng luyện thi, học tủ, học lệch cũng như giảm bớt chi phí đã diễn ra trong bao nhiêu năm qua.
Để tham dự kỳ thi này, thí sinh phải thi ít nhất 4 bài thi gồm 3 bài thi độc lập bắt buộc là Toán, Ngữ văn, Ngoại ngữ và một bài thi tổ hợp: Khoa học tự nhiên (Vật lý, Hóa học, Sinh học) và Khoa học xã hội (Lịch sử, Địa lý, GDCD).
Cũng như mọi năm, cả hệ thống chính trị từ Chính phủ, ngành giáo dục, chính quyền địa phương, công an, y tế đến các bậc phụ huynh và 900.000 thí sinh đều vào cuộc với tinh thần nghiêm túc (chưa kể đợt 2 với một số khu vực thuộc các tỉnh thành như Đà Nẵng, Đắc Lắc/Đắk Lắk, Quảng Nam thi vào ngày 3,4 tháng Chín sắp tới). Mùa thi năm nay phải lùi lại do đại dịch và phải chịu một áp lực rất lớn trước dư luận, trước nhiều ý kiến nên bỏ thi tốt nghiệp để đảm bảo tính mạng con người.
Tôi nghĩ chúng ta có thể khống chế được Covid-19. Nhưng kể cả không khống chế được thì kiểu gì người ta cũng tổ chức thi. Vì đa số các quan chức trong ngành giáo dục đều nghĩ đã học thì phải thi. Như một quán tính, không thi thì không hoàn thành công việc và mất phương hướng. Xét tốt nghiệp THPT thì có thể, nhưng tuyển sinh đại học và cao đẳng thì thế nào?
Nhân đây tôi muốn nói lại chuyện cũ. May mà người ta đã bỏ Kỳ thi tốt nghiệp TH và Kỳ thi tốt nghiệp THCS. Nếu không trong những ngày dịch diễn biến phức tạp này, kết hợp với Kỳ thi vào lớp 10 và Kỳ thi tốt nghiệp THPT thì nó chẳng khác gì một cuộc “tổng động viên”, có lẽ quân đội cũng phải tham gia. Tôi lẩn thẩn nghĩ nếu không bỏ thi tốt nghiệp TH và THCS (thời điểm đó người ta lo ngại chất lượng giáo dục sẽ đi xuống) trong tình hình đại dịch Covid-19 như hiện nay thì không biết ngành giáo dục sẽ phải giải quyết như thế nào?
Trong bối cảnh đại dịch này tôi càng nhận thấy căn bệnh trầm kha, thâm căn cố đế của giáo dục Việt Nam: Học để đi thi. Trên lý thuyết, mục tiêu của Giáo dục phổ thông là nhằm phát triển toàn diện cho người học về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo; hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trách nhiệm công dân… Nhưng trên thực tế, người ta không quan tâm đến cái mục tiêu đó. Nhà trường và phụ huynh chỉ quan tâm đến cái trước mắt, cái quyền lợi sát sườn. Nhà trường có bao nhiêu học sinh giỏi trong các kỳ thi cấp quận huyện, cấp thành phố, cấp quốc gia. Thi được bao nhiêu phần trăm vào lớp 10. Bao nhiêu phần trăm vào đại học cao đẳng. Đó là tiêu chí bất thành văn để đánh giá nhà trường, để đánh giá năng lực quản lý. Và đó cũng là niềm tự hào của những hiệu trưởng bút lông (tiêu biểu cho nền văn minh nông nghiệp), bút sắt (tiêu biểu cho cuộc cách mạng 1.0 và 2.0 trong thời đại cách mạng 4.0.
Cái bệnh thành tích trong thi cử đã khiến hầu hết các trường gần như trên quy mô toàn quốc quay cuồng trong ma trận điểm số thi vào lớp 10, thi vào trường chuyên, thi tốt nghiệp THPT và vào đại học cao đẳng (trong tháng Bảy tôi có dịp đến thăm một trường dân tộc nội trú ở vùng sâu Tây nguyên, học sinh cuối cấp vẫn phải ở lại trường để thầy cô luyện thi). Học sinh phải học để đi thi. Đó là mục đích. Đó là mục tiêu tối thượng. Kỷ luật, Thể chất, thẩm mỹ, kỹ năng, tính năng động, sáng tạo… Tất cả đều là thứ viển vông nếu không đạt được mục đích, mục tiêu tối thượng là điểm số.
Chúng ta đạt được rất nhiều giải quốc tế trong các kỳ thi về lĩnh vực toán học, vật lý, hóa học, sinh học. Đó là điều rất đáng tự hào và thực sự là niềm tự hào của chúng ta. Nếu tôi không nhầm thì tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á đều không có được thành tích như vậy. Thậm chí xếp thứ hạng trong các kỳ thi PISA chúng ta còn xếp trên một chục bậc so nhiều nước phương Tây, kể cả Mỹ).
Có lý do để người ta ngộ nhận về chất lượng của ngành giáo dục. Trong khi đó giới chuyên gia trong nước và thế giới đều thừa nhận một thực tế đáng buồn là nền giáo dục của chúng ta còn lạc hậu, còn một khoảng cách dài so với các nước ASEAN chứ chưa nói đến các nước phương Tây. Và rất dễ lý giải thành tích của chúng ta vì học sinh chúng ta Học là để Đi Thi. Và học để đi thi thì đương nhiên chúng ta có thành tích. Học sinh chúng ta không phải học theo mục tiêu của giáo dục phổ thông theo Luật Giáo dục đề ra, càng không phải học theo phương châm của Liên Hợp Quốc đề ra: “Học để biết, học để làm việc, học để chung sống và học để tự khẳng định mình”.
Cái đích thi cử là điểm số. Căn cứ vào điểm số để đánh giá năng lực, chất lượng con người: Đỗ tốt nghiệp hay không; vào đại học hay trượt. Điểm càng cao thì càng có cơ hội vào các trường đaị học tốp đầu (và sau này được vào công chức, ngoại trừ trường hợp chạy công chức). Điểm số cũng là niềm tự hào của các nhà trường, của phụ huynh từ PHỔ THÔNG đến ĐẠI HỌC, là thước đo giá trị của cá nhân đến tập thể? Vậy điểm số có đúng giá trị như vậy không?
Tôi xin kể một câu chuyện cách đây hai mươi năm, tôi đón một nhóm chuyên gia giáo dục thuộc UNESCO đến làm việc với học sinh. Tôi bố trí cho họ tiếp xúc và làm việc với một lớp chọn (vì danh dự quốc gia). Họ làm việc cả buổi sáng ở trường. Chiều theo học sinh về nhà để tìm hiểu. Họ khen học sinh của nhà trường rất giỏi. Họ nói nhiều bài tập ngay cả họ là chuyên gia giáo dục cũng không làm được. Tôi như được đi trên mây. Họ hỏi tôi về việc đánh giá học sinh như thế nào. Tôi say sưa nói về thành tích của lớp học. Đại loại là 100 phần trăm khá và giỏi, vân vân và vân vân… Tôi đưa cho họ xem quyển sổ điểm, điểm số đẹp như trong mơ. Tất cả các chuyên gia xúm lại chụp từng trang sổ điểm. Quyển sổ điểm tổng kết học kỳ một với tất cả các bộ môn. Môn văn 12 đầu điểm. Môn toán 10 đầu điểm... Môn ít nhất cũng bốn đầu điểm. Cả cuốn sổ điểm dày đặc những con số đẹp. Họ tỏ ra vô cùng ngạc nhiên. Một người thốt lên: Điển hình của nền giáo dục dựa trên điểm số (This is typical of a score-based education). Lúc đó tôi không hiểu nên hỏi lại, “Thế theo ông thì phải dựa trên cái gì?” Ông mỉm cười nói lại với tôi, “Nếu có dịp chúng ta sẽ trao đổi lại về vấn đề ông hỏi tôi. Rất tiếc bây giờ chúng tôi phải ra sân bay. Tôi muốn nói với ông một điều, các nước phương Tây có nền giáo dục tiên tiến người ta đã bỏ cái điều các ông đang làm từ mấy chục năm nay rồi.”
Cho đến bây giờ tôi thật sự xấu hổ vì đã chót “khoe khoang” với họ cái thành tích toàn những điểm 7, 8, 9, 10 của một nền giáo dục lạc hậu. Theo thống kê của Tổng cục Tống kê Việt Nam (xin xem bài viết năng xuất lao động của người Việt của tôi trên trang Facebook cách đây hơn một năm), năng xuất lao động của người Việt chỉ bằng một phần mười đến một phần hai mươi so với Thái Lan, Malaisia, Singapore. Và các nước trên so sánh với năng xuất lao động của các nước phương Tây lại như ta so sánh với họ. Nhìn ra xa hơn nữa chúng ta có bao nhiêu sinh viên ra trường ở Việt Nam được tuyển chọn vào làm cho các tập đoàn lớn như Apple, Google, Microsoft và 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới? Bao nhiêu người được tuyển chọn làm ở các tổ chức quốc tế và Liên hợp Quốc? Và rồi bao giờ học sinh chúng ta có tên trong các tập đoàn lớn trên thế giới? Bao giờ chúng ta có giải thưởng Nobel? Tôi không dám so sánh GDP bình quân đầu người của Việt Nam so với một số nước trong khối ASEAN, càng không dám so sánh với các nước phương Tây. Bởi mọi sự so sánh về vấn đề này quá khập khiễng.
Thống kê về kết quả thi mấy năm trở lại đây, hai môn “thảm họa”, có nhiều điểm liệt nhất là môn sử và ngoại ngữ. Năm trước trung bình môn sử toàn quốc là 4,3, ngoại ngữ cũng 4,3. Năm nay có tiến bộ hơn một chút là 4,5 (vì đề thi năm nay có ưu ái thí sinh hơn). Tôi dùng từ “thảm họa” là vì nó phản ánh một thực tế đáng lo ngại. Học sinh của chúng ta đã quên quá khứ, đánh mất quá khứ (Lịch sử) và không cần đến tương lai (Ngoại ngữ- công cụ để hội nhập, học tập và làm việc trong thời đại toàn cầu hóa). Đó là một trong những hệ quả của việc hoc để đi thi (do sức ép của Quốc hội nên Bộ Giáo dục mới quyết định đưa môn tiếng Anh vào thi tốt nghiệp quốc gia mấy năm nay).
Một hệ quả của việc học để đi thi nữa là, các nhà trường chỉ chú trọng đến “bắt ép” học sinh học thuộc máy móc, tập trung tối đa để học sinh thông hiểu và tăng cường tối đa làm bài tập vận dụng. Tức là chỉ chú ý tới tư duy cơ sở, tư duy bậc thấp, thứ tư duy chỉ để đào tạo ra lớp người thừa hành, lớp người làm thợ, lớp người đi làm thuê. Tư duy phân tích, tổng hợp, sáng tạo, thứ tư duy bậc cao (Higher-order Thinking)cùng với khả năng làm việc nhóm không được chú trọng. Những cái đó cực kỳ cần thiết cho học sinh trong thời đại 4.0 hiện nay thì bị bỏ qua.
Chắc một số bạn sẽ hỏi tôi học không thi thì đánh giá và tuyển học sinh vào đại học cao đẳng như thế nào?
Tôi xin không được trả lời trực tiếp. Chỉ nêu một ví dụ về giáo dục Mỹ.
Chắc nhiều người từng đoc những bài báo nói rằng chương trình phổ thông của Mỹ “dễ ợt”, học sinh Mỹ học kém về toán, điểm thi PISA thấp. Không thi tốt nghiệp tiểu học. Không thi vào lớp 6. Không thi tốt nghiệp THCS. Không thi vào lớp 10. Không thi tốt nghiệp THPT và cũng không thi Đại học ... Thậm chí chương trình chứng chỉ GRE, Chứng chỉ toán và logich để theo học tiến sỹ các môn khoa học xã hội, học sinh lớp 8,9,10 khá giỏi ở Việt Nam cũng làm được hết.
Nhưng có một nghịch lý là bất chấp những “yếu kém” bề mặt đó, nước Mỹ vẫn là siêu cường số một của thế giới, đứng đầu về tiềm lực kinh tế, đứng đầu về khoa học kỹ thuật, đứng đầu về sức mạnh quân sự từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến nay. Dĩ nhiên là họ đứng đầu về giáo dục đại học. Sinh viên từ xa mạc Xahara lạc hậu đến các nước Bắc Âu có nền giáo dục tiên tiến đều mơ ước được đặt chân vào những trường danh tiếng tốp 100 của Mỹ. Và ngay cả những trường nằm trong tốp 500 cũng có vài ba giáo sư được giải thưởng Nobel giảng dạy ở trường. Trường trong tốp đầu, có trường từ ngày thành lập đến nay có tới 98 giáo sư được giải thưởng Nobel. Chẳng trách sinh viên cả thế giới đổ xô đến Mỹ học đại học.
Cách tuyển sinh của các đại học Mỹ có thể là một trong nhiều câu trả lời học không phải để đi thi, học không phải dựa trên điểm số (họ chỉ xếp loại A, B, C, D từ tiểu học đến đại học). Họ chú ý đến năng lực cá nhân từng lĩnh vực, và đặc biệt là khả năng lãnh đạo, khả năng làm việc nhóm, sự đam mê, sự sáng tạo của học sinh từ rất sớm. Họ cho thấy không phải điểm học, điểm thi mà các hoạt động xã hội, ngoại khóa và bài luận mới là nơi người ta tìm thấy tố chất của những chủ nhân tương lai.
Tôi không nghĩ giáo dục Mỹ là hoàn hảo nhưng việc họ không tổ chức thi cử và phương thức tuyển sinh của các trường đại học Mỹ đã góp phần tạo ra một hệ thống giáo dục đại học đẳng cấp hàng đầu thế giới và một nước Mỹ có tầm ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới (một trăm trường đại học nổi tiếng nhất thế giới thì nước Mỹ có tới hơn 70 trường. Trong khi đó, một tỉ tư người Trung Quốc mới chỉ có một trường. Riêng sinh viên Học viện Massachuset Mỹ (Học viện chỉ đào tạo từ thạc sỹ và tiến sỹ trở lên) sau khi ra trường làm việc trong các công ty đa quốc đã gia, trong mười năm trở lại đây đã tạo ra số tiền xấp xỉ 1000 tỷ đô la).
Trường đại học Mỹ tuyển sinh như thế nào?
Nước Mỹ có hơn năm nghìn trường đại học, cao đẳng thì có xấp xỉ ngần đó cách tuyển sinh với các tiêu chí, cách thức tuyển chọn rất khác nhau. Tuy nhiên người ta vẫn có thể tìm ra một số điểm chung.
1. Các trường đại học Mỹ tuyển sinh nhiều đợt trong năm (tối thiểu là hai đợt tuyển sinh, mủa thu và mùa xuân)
Điều đó có nghĩa thí sinh học hết THPT được quyền đăng ký học bất cứ trường đại học nào ở Hoa Kỳ, bao nhiêu trường cũng được (không khống chế số lượng như ở Việt Nam). Thí sinh thoải mái chọn trường và nộp hồ sơ vào nhiều đại học khác nhau phù hợp với học phí, học lực bản thân.
2. Nhiều trường chấp nhận cho thí sinh đăng ký nhập học sớm
Nếu thí sinh thích một trường đại học và đặt trường ấy vào vị trí đầu trong danh sách thì việc đăng ký học sớm cho thí sinh cơ hội được nhận vào học sớm hơn so với hạn tuyển sinh thông thường. Cơ hội được nhận vào trường nhờ đăng ký học sớm cũng cao hơn so với hồ sơ nộp đúng hạn.
3. Hồ sơ xin vào trường đại học Mỹ
Trong hồ sơ xin học đại học Mỹ thì quan trọng nhất là bảng điểm cấp THPT (người Mỹ hoàn toàn toàn tin tưởng vào việc xếp loại của nhà trường. Không giống Việt Nam chỉ tin vào thi cử). Bảng điểm càng đẹp thì càng có khả năng được nhận vào học tại những trường danh giá. Nhà trường đại học khuyến khích học sinh và giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản lý trường THPT cung cấp thứ hạng của học sinh trong lớp, trong toàn khối càng tốt. Nếu nằm trong top 10 đứng đầu lớp thì đó là điều kiện quan trọng để vào các trường đại học nghiên cứu (người Mỹ cũng hoàn toàn tin tưởng vào giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm, cán bộ quản lý nhà trường. Không giống Việt Nam, không những chỉ tin vào thi mà còn không tin giáo viên, không tin nhà trường, dẫn đến việc hoán đổi giáo viên các quận huyện, các cấp để giám sát).
Bảng điểm đẹp là bảng điểm học tốt toàn diện, Chẳng hạn họ tuyển học chuyên ngành hóa sinh, ứng viên không chỉ học tốt môn hóa, môn sinh mà còn phải học tốt các môn khác. Cùng thành tích môn học như nhau nhưng họ sẽ chọn những thí sinh học có thành tích học tốt hơn về lịch sử hay chính trị.
(Tôi xin nhấn mạnh, cách tuyển sinh qua hồ sơ như của Mỹ, các trường đại học ở việt Nam đã thực hiện từ sau năm 1954, tức sau hòa bình lập lại ở miền Bắc đến năm học 1969-1970. Thời kỳ đó không phải năm nào cũng thi đại học. Việc xét tuyển chủ yếu qua hồ sơ theo nguyện vọng của học sinh và sự tư vấn của giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm. Nếu có thi cử thì đó là công việc của nội bộ nhà trường. Nó hoàn toàn không nặng nề, không có áp lực. Nó không phải là một “trận đánh lớn”, không phải là một cuộc tổng động viên sức người và sức của như từ đầu những năm 1980 trở lại đây! Tại sao thời kỳ đó lại đẻ ra rất nhiều nhà khoa học đầu ngành? Tại sao ngành giáo dục thời kỳ đó lại tạo ra một “thế hệ vàng” hoàn thành xuất sắc, cực kỳ xuất sắc nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miềm Bắc và tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam?)
Các loại giấy tờ kèm theo khác như giấy chứng nhận hoạt động xã hội, hoạt động ngoại khóa
Các hoạt động xã hội, ngoại khóa học sinh có thể rất đa dạng, từ thể thao, nghệ thuật đến hoạt động chính trị, xã hội. Học sinh sẽ phải mô tả tỉ mỉ các hoạt động của mình, thời lượng dành cho ngoại khóa và thành tích nếu có, đặc biệt là huy chương vàng, bạc thể dục, thể thao, văn nghệ, hội họa. Qua các loại giấy tờ này nhà tuyển sinh trường đại học sẽ đánh giá thêm về khả năng mọi mặt của ứng viên, tính sáng tạo và năng lực lãnh đạo của học sinh trong các hoạt động.
Học lực tốt nhưng ngoại khóa nghèo nàn chứng tỏ học sinh đó lười biếng hoặc chỉ vùi đầu vào học mà không quan tâm đến bên ngoài. Đây có thể là điểm liệt khiến hồ sơ bị loại dù điểm trên lớp và điểm thi tốt. Các nhà tuyển sinh quan tâm nhiều đến hoạt động ngoại khóa vì họ muốn cộng đồng học sinh của họ không chỉ học giỏi mà còn năng động, sáng tạo và có tố chất lãnh đạo. Những thí sinh đó thành công trong cuộc sống sau này sẽ làm tăng danh tiếng của nhà trường và thu hút thêm học sinh tài năng vào trường.
Một số tiêu chí khác chọn vào trường bên cạnh bảng điểm bao gồm: điểm SAT hoặc ACT, TOEFL, thư giới thiệu, và bài tự luận. Trong đó bài luận cá nhân là nơi bạn thể hiện các khía cạnh khác của bản thân ngoài điểm số, là cơ hội làm nổi bật hồ sơ nhập học.
Những tiêu chí trên khiến việc xét tuyển vào các trường đại học Mỹ khó khăn hơn, nhưng cũng dễ dàng hơn. Có thể bạn không xuất sắc trong học tập nhưng thể hiện được sự đam mê và khả năng lãnh đạo qua các hoạt động xã hội, ngoại khóa, cơ hội vào học ở một đại học danh giá vẫn rộng mở.
Có một tiêu chí thí sinh phải viết một bài luận trong hồ sơ. Mục đích của bài luận không chỉ chứng tỏ khả năng viết của thí sinh mà còn cho thấy thí sinh đó thế hiện mình như thế nào về tính cách, sự tinh tế, mức độ chín chắn, tầm suy nghĩ... Nhiều trường đại học của Mỹ coi bài luận quan trọng hơn cả điểm thi và điểm học vì họ cho rằng khả năng viết, biết cách kể một câu chuyện, biết cách thuyết phục người khác thông qua bài luận là tố chất quan trọng của sinh viên sau này.
4. Không cần chọn ngành ngay lập tức
Một điều thú vị ở các trường đại học Hoa Kỳ là sinh viên được theo học các môn đại cương tới cuối năm 2 mới phải quyết định chuyên ngành mình học. Không giống như ở Việt Nam, thí sinh phải đăng ký chuyên ngành ngay từ kỳ thi đầu vào. Có một loạt các chuyên ngành và khóa học cho thí sinh chọn lựa. Có thể ban đầu thí sinh học chuyên ngành toán hay khoa học nhưng khi được tự do khám phá nhiều lĩnh vực để tìm ra điều mình muốn, sinh viên có thể chuyển sang các chuyên ngành kỹ thuật hoặc xã hội. Sinh viên được hoàn toàn tự do. Với Việt Nam chúng ta đó là điều kỳ quặc không thể chấp nhận.
Kỳ quặc hơn, tôi có một cô bạn có con học đại học, theo học khoa học máy tính ở Mỹ. Kết thúc khóa con xin học tiến sỹ khoa học máy tính. Nhà trường không cho học bổng theo học đúng chuyên ngành, nhưng lại khuyến khích cho học bổng theo học công nghệ sinh học. Và em đó đã xuất sắc hoàn thành luận án tiến sỹ công nghệ sinh học (em không được học ở đại học Việt Nam. Nhưng lại được học và trưởng thành ở Mỹ. Hiện giờ đang làm việc cho một tập đoàn công nghệ cao danh giá nhất ở Thung lũng silicon). Kỳ quặc hơn nữa, sinh viên Mỹ tốt nghiệp chuyên ngành thể dục, âm nhạc, tâm lý… nếu muốn xin học trở thành bác sỹ, kể cả học đến thạc sỹ, tiến sỹ đều được các nhà trường khuyến khích. Người Mỹ quan niệm những sinh viên đó mới là những bác sỹ điều trị giỏi trong lĩnh vực thể thao, những bác sỹ giỏi điều trị tâm lý bệnh nhân, bác sỹ giỏi dùng âm nhạc điều trị những căn bệnh nan y, trầm cảm...
Nhân kết quả kỳ thi tốt nghiệp phổ thông và xét tuyển đại học cao đẳng trong những ngày đại dịch vừa được Bộ giáo dục công bố, xin có đôi điều cảm nghĩ trái chiều, một góc nhìn khác trong việc đối sánh với một nền giáo dục” kém thành tích thi cử” hơn ta để mọi người cùng suy ngẫm (PISA là chương trình thi đánh giá học sinh quốc tế của Tổ chức hợp tác các nước phát triển, đánh giá khả năng của học sinh về toán, khoa học và đọc hiểu. Chúng ta liên tục được xếp thứ 15, 16, 17, cao hơn mười bậc so với các nước phát triển Anh, Đức, Pháp, Mỹ. Mỹ liên tục đứng ở bậc 30 đến 36. Một số người trong Bộ Giáo dục Mỹ đề xuất cho học sinh các cấp ở Mỹ thi cử để cải thiện thành tích, nhưng sau nhiều cuộc hội thảo và do các bang, các nhà trường kiên quyết phản đối không quay trở lại chế độ thi cử, “không học tập” các nước kém phát triển và đang phát triển).
Read More

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.