Theo thống kê của Uỷ ban người Việt Nam ở nước ngoài, có khoảng 4,5 triệu kiều bào sinh sống tại 110 quốc gia và vùng lãnh thổ trên khắp thế giới. Trong số này có tới 500.000 nhà trí thức làm việc ở nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội. Riêng ở Mỹ có gần 2 triệu người Việt, chiến gần một nửa tổng số kiều bào và trí thức sống ở nước ngoài.
Do những lý do lịch sử, số lượng kiều bào ở Mỹ đông đảo nhất và cũng là hiện tượng mới nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Qua các nguồn tài liệu và tìm hiểu thực tế, chúng tôi tạm phân chia thành ba làn sóng người Việt di cư đến Mỹ: Làn sóng 1, từ trước đến năm 1975. Làn sóng thứ 2 từ năm 1976 đến giữa những năm 1980. Làn sóng thứ 3 từ cuối những năm 1990 đến nay.
Trong làn sóng thứ 1, khoảng 15.000 người ban đầu định cư tại Mỹ. Trong đó một số lượng nhỏ là vợ con và thân nhân vợ con của những người lính Mỹ tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng chủ yếu là học sinh, sinh viên, thương gia định cư ở xứ cờ hoa. Đặc biệt khi chế độ Việt Nam Cộng hòa (chế độ Ngụy quyền) sụp đổ ngày 30/4/1975, một đợt tỵ nạn khoảng 125.000 người ồ ạt di tản đến Mỹ (theo Wikipedia). Phần lớn là quân nhân và những người làm việc trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa cùng với gia đình họ.
Làn sóng thứ 2 có tới hơn tám trăm ngàn người vượt biên theo đường biển (theo số liệu của Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn), tới các trại tỵ nạn ở Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philipines… Từ những trại tỵ nạn này họ đến các nước thứ 3, trong đó có Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian này Mỹ tiếp nhận Chương trình Ra đi Trật tự, số người được Mỹ tiếp nhận là 531.310 người. Những người di cư trong làn sóng này chủ yếu có liên quan đến Chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Làn sóng thứ 3 có khoảng ba đến bốn chục ngàn người, gắn liền với quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và toàn cầu hóa. Số người này chủ yếu là sinh viên theo học tại các trường đại học Mỹ. Sau khi học xong ở lại làm việc tại các khu vực kinh tế cùng với một số nhỏ thương gia mua nhà định cư tại Mỹ. Số những người này phần lớn đều có hai quốc tịch Việt và Mỹ.
Đáng chú ý nhất là làn sóng thứ 2, làn sóng di cư lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng là làn sóng di cư lớn nhất trong lịch sử nhân loại vào thời điểm đó (trong số người di cư có rất nhiều là người Hoa). Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện từ “thuyền nhân” (boat people). Có thể nói đó là một tỳ vết trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà người trong nước thường không muốn nhắc đến. Không chỉ vì gần một triệu người rời khỏi quê hương bản quán lênh đênh trên biển mà vì cả thế giới bị sốc vì hàng ngàn phụ nữ, trẻ em bị chết bi thảm vì đói khát, bệnh tật, cướp bóc trên những con thuyền tre, gỗ mỏng manh hoặc chết trong các trại tỵ nạn. Và việc này lại diễn ra trong suốt gần một thập niên).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến làn sóng thứ 2, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân trong nước, nguyên nhân ngoài nước. Tôi đã phân tích hai chương trong cuốn “Có một nước Mỹ như thế” và bài viết “Sự thật về cuộc chiến tranh biến giới Việt Trung” trong trang Blogchiasett cũng như trong trang Facebook này nên không muốn nhắc lại nữa.
Chỉ biết rằng về phía Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng nhưng lực bất tòng tâm. Tôi còn nhớ ngay sau ngày 30/4/1975, khi cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hỏi các cộng sự và cố vấn “Chúng ta phải làm gì trước mắt”. Người thì trả lời là cần tiến hành bầu cử thống nhất đất nước. Người thì trả lời là cần xây dựng kế hoạch khôi phục sản xuất và tiến hành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Người thì trả lời là cần phải cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam… Ông lắc đầu nói “Việc cần làm trước tiên là hòa giải dân tộc”. Đáng tiếc là người đứng đầu Đảng cầm quyền không thể làm được điều đó. Ông không thể ngăn được sự kỳ thị của hàng chục vạn gia đình có thân nhân bị phía Việt Nam Cộng hòa giết hại dã man từ khi luật 10/59 của Mỹ Diệm ra đời đến ngày 30/4/1975. Nói như nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đó là cả một “rừng xương khô”…
Ban đầu người Việt được phía Mỹ bố trí rải rác ở nhiều bang trên cả nước Mỹ, nhưng dần dần người Việt tập trung ở thành phố Wesminter, thành phố Garden Grover nằm trong khu vực thuộc quận Cam, và thành phố San Jose thuộc bang California. Ngoài bang California người Việt còn tập trung tại thành phố Houston thuộc bang Texas. Có thể nói hai thành phố nằm trong khu vực quận Cam chính là thủ đô của “người Việt tỵ nạn”.
82,8% những người di cư đến Mỹ trong làn sóng thứ 1 và làn sóng thứ 2 trở thành người Mỹ gốc Việt, là công dân Hoa Kỳ. Phần đông trong số họ, nhất là những người từng tham gia quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng hội nhập vào xã hội Mỹ, cả về chính trị lẫn kinh tế. Họ tham gia vào bộ máy chính quyền Mỹ, gây sức ép buộc chính quyền bang California phải công nhận biểu tượng quốc kỳ của người tỵ nạn là cờ ba que (cờ Ngụy quyền). Họ xây dựng đài tưởng niệm những người lính Việt và lính Mỹ bị chết trong cuộc chiến tranh Việt Nam (Vietnam War Memorial). Họ xây dựng đài tưởng niệm “thuyền nhân”, tổ chức ngày thuyền nhân Việt Nam, cầu nguyện cho những người bị chết trên con đường “đi tìm tự do”. Họ thành lập khu vực cấm những người cộng sản đặt chân đến (No Communist Zone).
Những người lính Dù trong Sư đoàn Dù Việt Nam Cộng hòa, sư đoàn mang danh Thiên thần Mũ đỏ thỉnh thoảng lại duyệt binh để ôn lại những chiến công một thời. Họ lấy tuần cuối cùng của thángTư là tuần lễ đen. Họ điên cuồng chống phá chính quyền cách mạng bằng nhiều hình thức, thường biểu tình chống Chính phủ Việt Nam mỗi khi có phái đoàn cấp cao đến thăm Mỹ. Họ ra sức quyên tiền cho các tổ chức phản động, đặc biệt là vận động hành lang để Chính quyền Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách những nước có vấn đề về nhân quyền cho tới tận ngày hôm nay…
Tôi lấy một ví dụ cụ thể về thái độ chính trị của họ. Vào năm 1999, ông Trần Trường treo cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cửa hàng cho thuê băng đĩa của cá nhân. Vậy mà sau một đêm, 15000 người biểu tình rầm rộ chống lại ông trong chuỗi 52 ngày đêm. Họ dùng mọi thủ đoạn khiến vợ ông bị tâm thần. Bản thân ông Trường cũng bị truy tố vì lý do cho thuê băng lậu. Thế mới biết cuộc chiến về ý thức hệ vẫn còn sâu sắc trong số những người Việt ở Mỹ.
Ở những thành phố tập trung người Việt, họ thường thành lập khu vực thương xá lấy tên là Little Saigon (Tiểu Sài Gòn), cái tên mang biểu tượng chính trị. Những khu vực này có khá đông người Việt. Có những văn phòng thương mại, dịch vụ thuần người Việt như văn phòng tư vấn, văn phòng luật sư, phòng khám chữa bệnh, phòng làm nail; có những cửa hàng từ đồ dùng quần áo, đến lương thực, thực phẩm Việt cho đến các tiệm ăn Việt đủ các loại. Những khu vực này không chỉ thu hút một lượng khá đông khách hàng Việt mà còn thu hút khách hàng người Ấn, người Hoa, khách hàng người Mỹ... Theo quan sát nhiều năm tôi cảm thấy họ làm ăn thuận lợi. Những cửa hàng có uy tín người mua luôn phải xếp hàng dài chờ đến lượt.
Người Việt ở Mỹ làm đủ các thứ nghề từ dịch vụ quản trị, phục vụ, nail, vận tải, xây dựng, sửa chữa, làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp đến làm việc ở các trường đại học, trường phổ thông, các khu công nghệ cao, các tập đoàn tài chính, ngân hàng… Bình quân mỗi hộ gia đình người Việt có thu nhập khoảng 60.000 đô một năm, chỉ thấp hơn thu nhập hộ gia đình Mỹ một chút. Tỷ lệ gia đình có nhà ở lên tới gần 70%, cao hơn bình quân người Mỹ. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp lại thấp hơn người Mỹ.
Về sinh hoạt cộng đồng, văn hóa tôn giáo, người Việt ở Mỹ thường sống quây quần, có những sinh hoạt cộng đồng thường xuyên. Họ thường tập tụ nhau mỗi khi có dịp. Nhiều đoàn thể, hội đồng hương, hội ái hữu được thành lập. Họ vẫn giữ các phong tục tập quán người Việt, nói tiếng Việt. Trong nhà họ vẫn có bàn thờ tổ tiên, tổ chức lễ tết, ma chay, cưới xin...
Trong hơn một chục năm gần đây, xu hướng cực đoan “bài Cộng” đã lắng dần. Phần vì sự phát triển mọi mặt trong nước khiến các phần tử “chống Cộng” không có cơ sở để hoạt động chống phá cách mạng. Phần vì thế hệ di cư thứ nhất số đông đã già, dần sang bên kia thế giới, số còn lại nhận thức được xu thế không thể đảo ngược được. Ngay cả Nguyễn Cao Kỳ, Phó tổng thống Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng khuyên các chiến hữu: “Khi trong tay chúng ta còn 1,2 triệu quân mà vẫn thất bại, vậy thì bây giờ chúng ta còn làm được gì nữa. Tôi khuyên anh em chiến hữu hãy bảo ban nhau làm ăn, xây dựng kinh tế gia đình”. Bản thân Nguyễn Cao Kỳ cũng có dự án đầu tư ở trong nước. Tôi đã từng ở Resort của ông ta ở Sơn Tây cách đây gần chục năm.
Tôi từng chứng kiến không phải ai thuộc thế hệ di cư thứ nhất cũng hằn học với chính quyền trong nước, với những người “Cộng sản”. Nhiều người trong số họ tình nguyện giúp đỡ người Việt mới bắt đầu sang Mỹ, kể cả những học sinh, sinh viên miền Bắc. Khi các con gái tôi sinh nở bên Mỹ, cũng như nhiều cháu gái theo học ở các trường đại học Mỹ không có người thân thích bên cạnh, chính vợ con những người di tản thuộc làn sóng thứ 1, thứ hai đến trực đêm săn sóc. Khi tới, tôi vô cùng cảm động. Cảm ơn họ, họ trả lời chính họ phải cảm ơn các cháu, vì các cháu đã đem lại cho họ tình cảm quê hương đất nước.
Tôi đã dự một bữa tiệc cùng người cháu của hai thiếu tá, hai anh em ruột quê Hưng Yên thuộc hai chiến tuyến trong cuộc chiến tranh Việt Nam tại vịnh Hạ Long. Họ quy ước với nhau từ trước là không nói đến chuyện chính trị. Ấy vậy mà trong lúc ăn cả hai đều bàn luận cách làm thế nào để chống lại dã tâm của người Tàu ở Biển Đông. Cuối bữa tiệc người em cùng vợ mời người anh và gia đình sang năm sang Houston Texas vài tháng. Người anh hỏi: “Liệu có gì bất tiện với những người bạn đồng ngũ của chú”. Người em trả lời: “Em chắc là không. Bây giờ người ta chỉ bàn đến chuyện làm ăn, chuyện chống Tàu. Chuyện cách đây mấy mươi năm chỉ còn là hoài niệm”.
Tôi đã từng trò chuyện với một lái xe taxi thuộc thế hệ thứ nhất. Ông ta tên là Thăng, từng tham gia FULRO, quê Bình Thuận. Ông từng tâm sự với tôi: “Cực lắm anh à. Nhất là về tình cảm. Bức bối lắm. Muốn về Việt Nam, nhưng vẫn có mặc cảm gì đó, rồi cứ lần lần nữa nữa”. Tôi được biết con gái và con rể ông lại sống và làm việc ở thành Phố Hồ Chí Minh. Hiện chúng có một cuộc sống mà ông cho rằng đó là một cuộc sống trong mơ. Chia tay, ông nói với tôi: “Có lẽ tôi phải xóa đi cái mặc cảm vì bọn chúng luôn giục tôi trở về”.
Tôi cũng được tiếp xúc với một số người đã về hưu. Thâm chí có cả những người lấy vợ Mỹ. Sau khi trở lại Việt Nam. Họ quyết định về thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang hay Đà Nẵng sống quãng đời còn lại sau bao năm tha hương. Tôi cũng có một số bà con quen xa, vào Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đi Mỹ năm 1986. Năm trước họ cũng trở về nhà cũ ở quận 2 thành phố Hồ Chí Minh…
Thế hệ thứ hai sinh ra ở Việt Nam hoặc ở Mỹ, có thể nói họ không quan tâm nhiều đến chính trị. Phần lớn họ đều lo làm ăn, lo kiếm tiền. Tôi nghĩ dù ở Mỹ hay ở Việt đối với họ không quan trọng. Điều quan trong trọng là ở đâu có cơ hội việc làm, ở đâu có cơ hội lam giàu và có một cuộc sống tốt đẹp và một cuộc sống cân bằng, thoải mái.
Tôi đã từng tiếp xúc với một số thợ nail khi tá túc ở nhà một “bà chủ” ở bang Arkansas. Một số chi em nước mắt lưng tròng. Họ ước gì có thể bay về Việt Nam được. Họ nói với tôi: “Ở đây như đi tù, chỉ biết làm việc và làm việc. Suy cho cùng ra đi cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Nghe nói bây giờ ở Việt Nam chuyện đó không còn là vấn đề. Đến các ca sĩ hải ngoại người ta còn đổ về Việt Nam làm ăn”…
Trong khi chờ làm thủ tục bay về Việt Nam, tôi vô tình chạm vào lưỡi dao cạo râu trong cặp máy tính. Máu chảy ròng ròng từ ngón tay trỏ. Một người Việt luống tuổi trông thấy vội đến giúp. Anh xé điếu thuốc dịt vào ngón tay tôi. Và chúng tôi trở thành bạn đồng hành suốt chuyến bay về Hàn Quôc.
Anh là cai xây dựng ở thành phố San Jose. Qua anh tôi biết đươc đời sống của những người thợ xây dựng Việt và thợ xây dựng Mỹ. Qua anh tôi cũng biết được cuộc sống của những người Việt đánh cá, nhặt cua ở vịnh Mexico và Alaska...
Nói tóm lại nhiều người Việt hội nhập khá tốt vào xã hội Mỹ, nhất là những người trẻ, có bằng cấp, nhưng có không ít người không thể hội nhập được. Với họ đó là một cuộc sống cực nhọc để sinh tồn. Nước Mỹ thật sự không phải là thiên đường cho những người Việt già cả, cho những người Việt lao động giản đơn.
Read More
Do những lý do lịch sử, số lượng kiều bào ở Mỹ đông đảo nhất và cũng là hiện tượng mới nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Qua các nguồn tài liệu và tìm hiểu thực tế, chúng tôi tạm phân chia thành ba làn sóng người Việt di cư đến Mỹ: Làn sóng 1, từ trước đến năm 1975. Làn sóng thứ 2 từ năm 1976 đến giữa những năm 1980. Làn sóng thứ 3 từ cuối những năm 1990 đến nay.
Trong làn sóng thứ 1, khoảng 15.000 người ban đầu định cư tại Mỹ. Trong đó một số lượng nhỏ là vợ con và thân nhân vợ con của những người lính Mỹ tham gia cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng chủ yếu là học sinh, sinh viên, thương gia định cư ở xứ cờ hoa. Đặc biệt khi chế độ Việt Nam Cộng hòa (chế độ Ngụy quyền) sụp đổ ngày 30/4/1975, một đợt tỵ nạn khoảng 125.000 người ồ ạt di tản đến Mỹ (theo Wikipedia). Phần lớn là quân nhân và những người làm việc trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa cùng với gia đình họ.
Làn sóng thứ 2 có tới hơn tám trăm ngàn người vượt biên theo đường biển (theo số liệu của Cao ủy Liên hợp quốc về người tỵ nạn), tới các trại tỵ nạn ở Indonesia, Thái Lan, Singapore, Philipines… Từ những trại tỵ nạn này họ đến các nước thứ 3, trong đó có Hoa Kỳ. Cũng trong thời gian này Mỹ tiếp nhận Chương trình Ra đi Trật tự, số người được Mỹ tiếp nhận là 531.310 người. Những người di cư trong làn sóng này chủ yếu có liên quan đến Chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Làn sóng thứ 3 có khoảng ba đến bốn chục ngàn người, gắn liền với quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và toàn cầu hóa. Số người này chủ yếu là sinh viên theo học tại các trường đại học Mỹ. Sau khi học xong ở lại làm việc tại các khu vực kinh tế cùng với một số nhỏ thương gia mua nhà định cư tại Mỹ. Số những người này phần lớn đều có hai quốc tịch Việt và Mỹ.
Đáng chú ý nhất là làn sóng thứ 2, làn sóng di cư lớn nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam và cũng là làn sóng di cư lớn nhất trong lịch sử nhân loại vào thời điểm đó (trong số người di cư có rất nhiều là người Hoa). Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại xuất hiện từ “thuyền nhân” (boat people). Có thể nói đó là một tỳ vết trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà người trong nước thường không muốn nhắc đến. Không chỉ vì gần một triệu người rời khỏi quê hương bản quán lênh đênh trên biển mà vì cả thế giới bị sốc vì hàng ngàn phụ nữ, trẻ em bị chết bi thảm vì đói khát, bệnh tật, cướp bóc trên những con thuyền tre, gỗ mỏng manh hoặc chết trong các trại tỵ nạn. Và việc này lại diễn ra trong suốt gần một thập niên).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến làn sóng thứ 2, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân trong nước, nguyên nhân ngoài nước. Tôi đã phân tích hai chương trong cuốn “Có một nước Mỹ như thế” và bài viết “Sự thật về cuộc chiến tranh biến giới Việt Trung” trong trang Blogchiasett cũng như trong trang Facebook này nên không muốn nhắc lại nữa.
Chỉ biết rằng về phía Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng nhưng lực bất tòng tâm. Tôi còn nhớ ngay sau ngày 30/4/1975, khi cố Tổng Bí thư Lê Duẩn hỏi các cộng sự và cố vấn “Chúng ta phải làm gì trước mắt”. Người thì trả lời là cần tiến hành bầu cử thống nhất đất nước. Người thì trả lời là cần xây dựng kế hoạch khôi phục sản xuất và tiến hành sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Người thì trả lời là cần phải cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam… Ông lắc đầu nói “Việc cần làm trước tiên là hòa giải dân tộc”. Đáng tiếc là người đứng đầu Đảng cầm quyền không thể làm được điều đó. Ông không thể ngăn được sự kỳ thị của hàng chục vạn gia đình có thân nhân bị phía Việt Nam Cộng hòa giết hại dã man từ khi luật 10/59 của Mỹ Diệm ra đời đến ngày 30/4/1975. Nói như nhạc sỹ Trịnh Công Sơn đó là cả một “rừng xương khô”…
Ban đầu người Việt được phía Mỹ bố trí rải rác ở nhiều bang trên cả nước Mỹ, nhưng dần dần người Việt tập trung ở thành phố Wesminter, thành phố Garden Grover nằm trong khu vực thuộc quận Cam, và thành phố San Jose thuộc bang California. Ngoài bang California người Việt còn tập trung tại thành phố Houston thuộc bang Texas. Có thể nói hai thành phố nằm trong khu vực quận Cam chính là thủ đô của “người Việt tỵ nạn”.
82,8% những người di cư đến Mỹ trong làn sóng thứ 1 và làn sóng thứ 2 trở thành người Mỹ gốc Việt, là công dân Hoa Kỳ. Phần đông trong số họ, nhất là những người từng tham gia quân đội Việt Nam Cộng hòa nhanh chóng hội nhập vào xã hội Mỹ, cả về chính trị lẫn kinh tế. Họ tham gia vào bộ máy chính quyền Mỹ, gây sức ép buộc chính quyền bang California phải công nhận biểu tượng quốc kỳ của người tỵ nạn là cờ ba que (cờ Ngụy quyền). Họ xây dựng đài tưởng niệm những người lính Việt và lính Mỹ bị chết trong cuộc chiến tranh Việt Nam (Vietnam War Memorial). Họ xây dựng đài tưởng niệm “thuyền nhân”, tổ chức ngày thuyền nhân Việt Nam, cầu nguyện cho những người bị chết trên con đường “đi tìm tự do”. Họ thành lập khu vực cấm những người cộng sản đặt chân đến (No Communist Zone).
Những người lính Dù trong Sư đoàn Dù Việt Nam Cộng hòa, sư đoàn mang danh Thiên thần Mũ đỏ thỉnh thoảng lại duyệt binh để ôn lại những chiến công một thời. Họ lấy tuần cuối cùng của thángTư là tuần lễ đen. Họ điên cuồng chống phá chính quyền cách mạng bằng nhiều hình thức, thường biểu tình chống Chính phủ Việt Nam mỗi khi có phái đoàn cấp cao đến thăm Mỹ. Họ ra sức quyên tiền cho các tổ chức phản động, đặc biệt là vận động hành lang để Chính quyền Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách những nước có vấn đề về nhân quyền cho tới tận ngày hôm nay…
Tôi lấy một ví dụ cụ thể về thái độ chính trị của họ. Vào năm 1999, ông Trần Trường treo cờ đỏ sao vàng và ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh tại cửa hàng cho thuê băng đĩa của cá nhân. Vậy mà sau một đêm, 15000 người biểu tình rầm rộ chống lại ông trong chuỗi 52 ngày đêm. Họ dùng mọi thủ đoạn khiến vợ ông bị tâm thần. Bản thân ông Trường cũng bị truy tố vì lý do cho thuê băng lậu. Thế mới biết cuộc chiến về ý thức hệ vẫn còn sâu sắc trong số những người Việt ở Mỹ.
Ở những thành phố tập trung người Việt, họ thường thành lập khu vực thương xá lấy tên là Little Saigon (Tiểu Sài Gòn), cái tên mang biểu tượng chính trị. Những khu vực này có khá đông người Việt. Có những văn phòng thương mại, dịch vụ thuần người Việt như văn phòng tư vấn, văn phòng luật sư, phòng khám chữa bệnh, phòng làm nail; có những cửa hàng từ đồ dùng quần áo, đến lương thực, thực phẩm Việt cho đến các tiệm ăn Việt đủ các loại. Những khu vực này không chỉ thu hút một lượng khá đông khách hàng Việt mà còn thu hút khách hàng người Ấn, người Hoa, khách hàng người Mỹ... Theo quan sát nhiều năm tôi cảm thấy họ làm ăn thuận lợi. Những cửa hàng có uy tín người mua luôn phải xếp hàng dài chờ đến lượt.
Người Việt ở Mỹ làm đủ các thứ nghề từ dịch vụ quản trị, phục vụ, nail, vận tải, xây dựng, sửa chữa, làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp đến làm việc ở các trường đại học, trường phổ thông, các khu công nghệ cao, các tập đoàn tài chính, ngân hàng… Bình quân mỗi hộ gia đình người Việt có thu nhập khoảng 60.000 đô một năm, chỉ thấp hơn thu nhập hộ gia đình Mỹ một chút. Tỷ lệ gia đình có nhà ở lên tới gần 70%, cao hơn bình quân người Mỹ. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp lại thấp hơn người Mỹ.
Về sinh hoạt cộng đồng, văn hóa tôn giáo, người Việt ở Mỹ thường sống quây quần, có những sinh hoạt cộng đồng thường xuyên. Họ thường tập tụ nhau mỗi khi có dịp. Nhiều đoàn thể, hội đồng hương, hội ái hữu được thành lập. Họ vẫn giữ các phong tục tập quán người Việt, nói tiếng Việt. Trong nhà họ vẫn có bàn thờ tổ tiên, tổ chức lễ tết, ma chay, cưới xin...
Trong hơn một chục năm gần đây, xu hướng cực đoan “bài Cộng” đã lắng dần. Phần vì sự phát triển mọi mặt trong nước khiến các phần tử “chống Cộng” không có cơ sở để hoạt động chống phá cách mạng. Phần vì thế hệ di cư thứ nhất số đông đã già, dần sang bên kia thế giới, số còn lại nhận thức được xu thế không thể đảo ngược được. Ngay cả Nguyễn Cao Kỳ, Phó tổng thống Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng khuyên các chiến hữu: “Khi trong tay chúng ta còn 1,2 triệu quân mà vẫn thất bại, vậy thì bây giờ chúng ta còn làm được gì nữa. Tôi khuyên anh em chiến hữu hãy bảo ban nhau làm ăn, xây dựng kinh tế gia đình”. Bản thân Nguyễn Cao Kỳ cũng có dự án đầu tư ở trong nước. Tôi đã từng ở Resort của ông ta ở Sơn Tây cách đây gần chục năm.
Tôi từng chứng kiến không phải ai thuộc thế hệ di cư thứ nhất cũng hằn học với chính quyền trong nước, với những người “Cộng sản”. Nhiều người trong số họ tình nguyện giúp đỡ người Việt mới bắt đầu sang Mỹ, kể cả những học sinh, sinh viên miền Bắc. Khi các con gái tôi sinh nở bên Mỹ, cũng như nhiều cháu gái theo học ở các trường đại học Mỹ không có người thân thích bên cạnh, chính vợ con những người di tản thuộc làn sóng thứ 1, thứ hai đến trực đêm săn sóc. Khi tới, tôi vô cùng cảm động. Cảm ơn họ, họ trả lời chính họ phải cảm ơn các cháu, vì các cháu đã đem lại cho họ tình cảm quê hương đất nước.
Tôi đã dự một bữa tiệc cùng người cháu của hai thiếu tá, hai anh em ruột quê Hưng Yên thuộc hai chiến tuyến trong cuộc chiến tranh Việt Nam tại vịnh Hạ Long. Họ quy ước với nhau từ trước là không nói đến chuyện chính trị. Ấy vậy mà trong lúc ăn cả hai đều bàn luận cách làm thế nào để chống lại dã tâm của người Tàu ở Biển Đông. Cuối bữa tiệc người em cùng vợ mời người anh và gia đình sang năm sang Houston Texas vài tháng. Người anh hỏi: “Liệu có gì bất tiện với những người bạn đồng ngũ của chú”. Người em trả lời: “Em chắc là không. Bây giờ người ta chỉ bàn đến chuyện làm ăn, chuyện chống Tàu. Chuyện cách đây mấy mươi năm chỉ còn là hoài niệm”.
Tôi đã từng trò chuyện với một lái xe taxi thuộc thế hệ thứ nhất. Ông ta tên là Thăng, từng tham gia FULRO, quê Bình Thuận. Ông từng tâm sự với tôi: “Cực lắm anh à. Nhất là về tình cảm. Bức bối lắm. Muốn về Việt Nam, nhưng vẫn có mặc cảm gì đó, rồi cứ lần lần nữa nữa”. Tôi được biết con gái và con rể ông lại sống và làm việc ở thành Phố Hồ Chí Minh. Hiện chúng có một cuộc sống mà ông cho rằng đó là một cuộc sống trong mơ. Chia tay, ông nói với tôi: “Có lẽ tôi phải xóa đi cái mặc cảm vì bọn chúng luôn giục tôi trở về”.
Tôi cũng được tiếp xúc với một số người đã về hưu. Thâm chí có cả những người lấy vợ Mỹ. Sau khi trở lại Việt Nam. Họ quyết định về thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang hay Đà Nẵng sống quãng đời còn lại sau bao năm tha hương. Tôi cũng có một số bà con quen xa, vào Nam sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, đi Mỹ năm 1986. Năm trước họ cũng trở về nhà cũ ở quận 2 thành phố Hồ Chí Minh…
Thế hệ thứ hai sinh ra ở Việt Nam hoặc ở Mỹ, có thể nói họ không quan tâm nhiều đến chính trị. Phần lớn họ đều lo làm ăn, lo kiếm tiền. Tôi nghĩ dù ở Mỹ hay ở Việt đối với họ không quan trọng. Điều quan trong trọng là ở đâu có cơ hội việc làm, ở đâu có cơ hội lam giàu và có một cuộc sống tốt đẹp và một cuộc sống cân bằng, thoải mái.
Tôi đã từng tiếp xúc với một số thợ nail khi tá túc ở nhà một “bà chủ” ở bang Arkansas. Một số chi em nước mắt lưng tròng. Họ ước gì có thể bay về Việt Nam được. Họ nói với tôi: “Ở đây như đi tù, chỉ biết làm việc và làm việc. Suy cho cùng ra đi cũng chỉ vì miếng cơm manh áo. Nghe nói bây giờ ở Việt Nam chuyện đó không còn là vấn đề. Đến các ca sĩ hải ngoại người ta còn đổ về Việt Nam làm ăn”…
Trong khi chờ làm thủ tục bay về Việt Nam, tôi vô tình chạm vào lưỡi dao cạo râu trong cặp máy tính. Máu chảy ròng ròng từ ngón tay trỏ. Một người Việt luống tuổi trông thấy vội đến giúp. Anh xé điếu thuốc dịt vào ngón tay tôi. Và chúng tôi trở thành bạn đồng hành suốt chuyến bay về Hàn Quôc.
Anh là cai xây dựng ở thành phố San Jose. Qua anh tôi biết đươc đời sống của những người thợ xây dựng Việt và thợ xây dựng Mỹ. Qua anh tôi cũng biết được cuộc sống của những người Việt đánh cá, nhặt cua ở vịnh Mexico và Alaska...
Nói tóm lại nhiều người Việt hội nhập khá tốt vào xã hội Mỹ, nhất là những người trẻ, có bằng cấp, nhưng có không ít người không thể hội nhập được. Với họ đó là một cuộc sống cực nhọc để sinh tồn. Nước Mỹ thật sự không phải là thiên đường cho những người Việt già cả, cho những người Việt lao động giản đơn.