Chiến tranh biên giới năm 1979: Lá thư từ Trung Quốc

1 comment

 Chiến tranh biên giới 1979: Lá thư từ Trung Quốc hạch tội Bắc Kinh, khẳng định thần thoại vô địch về quân đội Việt Nam

Tôi vẫn nhớ ngày 17/2/1979 Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chính phủ Trung Quốc huy động 60 vạn quân ồ ạt xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới phía bắc. Tôi đã có một số bài viết về đề tài này. Năm nay đọc lại những bài viết cũ, định viết một bài mới nhân sự kiện đáng buồn xảy ra cách đây 42 năm.
Trong khi tìm tư liệu mới, tình cờ tôi đọc được một bài lược dịch bức thư của một người Trung Quốc phản đối nhà cầm quyền Bắc Kinh đem quân xâm lược Việt Nam. Bài lược dịch của tác giả Hải Võ khiến tôi rất vui, vì người viết nêu ra nguyên nhân khiến nhà cầm quyền Bắc Kinh xâm lược Việt Nam đúng như tôi đã phân tích trong các bài viết của mình. Hơn nữa đó lại là của một người Trung Quốc. Có thể nói đây là lá thư độc nhất vô nhị ở Trung Quốc vào thời điểm cuộc Chiến tranh biên giới 1979 nổ ra, lá thư công khai phản đối lãnh đạo Trung Quốc tấn công xâm lược Việt Nam thời điểm đó.
Thư được đề ngày 3/3/1979, hai ngày trước khi Trung Quốc tuyên bố rút toàn bộ lực lượng xâm lược khỏi Việt Nam. Tác giả lá thư là Vương Phàm Tây (1907-2002), tên thật Vương Văn Nguyên, người Chiết Giang, là một chí sĩ từng tham gia phong trào cách mạng Trung Quốc từ những năm 1920 bên cạnh Chu Ân Lai (Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc) và một số nhân vật sau đó trở thành lãnh đạo Trung Quốc. Ông Vương từng giữ chức cán sự Ban tổ chức cán bộ Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc vào năm 1929, làm việc dưới quyền Chu Ân Lai.
Sau đây tôi xin giới thiệu nội dung bài lược dịch để các anh em, bạn bè, đồng nghiệp tham khảo thêm nhân kỷ niệm 42 năm cuộc Chiến tranh biên giới năm 1979 của tập đoàn bành trướng Bắc kinh, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình:
Hồi đầu tháng 1, khi Đặng Tiểu Bình thăm Mỹ và Nhật Bản đã huênh hoang về việc "trừng phạt" Việt Nam, muốn dạy cho Hà Nội một "bài học". Sau khi về nước, chính quyền Bắc Kinh liền bắt đầu hành động. Rạng sáng ngày 17/2, họ điều động lượng lớn binh lực vượt qua biên giới, tấn công Việt Nam.
Vì sao hành động như vậy? Bắc Kinh nêu ra rất nhiều lý do nhưng đều tiền hậu bất nhất, mâu thuẫn lẫn nhau. Lúc thì nói rằng do Việt Nam "xâm phạm" Campuchia, lúc lại nói vì quân đội Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc, khi lại nói bởi chính quyền Hà Nội "vong ân phụ nghĩa", rồi lại nói là muốn phá vỡ "thần thoại vô địch" về quân đội Việt Nam.
Bất kể nói như thế nào thì giọng điệu của Bắc Kinh hoàn toàn giống với chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản khi xâm lược Trung Quốc trước đây. Hành động của Bắc Kinh giống với đế quốc Mỹ khi đóng vai "hiến binh quốc tế" ở Đông Nam Á...
Cách "nghịch thiên hành đạo" này của chính quyền Bắc Kinh không chỉ làm nguy hại lợi ích của giai cấp công nông Việt Nam cùng lợi ích của cách mạng Việt Nam, mà còn tổn hại đến lợi ích của công nông Trung Quốc cùng sự nghiệp cách mạng của họ... Do đó, chúng ta cần phải nỗ lực hết mình để xé rách màn tuyên truyền giả dối của họ, phải triệt để vạch trần hành động tội ác của họ...
[Bắc Kinh] tuyên bố "tấn công trừng phạt Việt Nam bởi Việt Nam xâm phạm Campuchia". Đây là lập trường "cảnh sát, quan tòa và ác bá". Bất kể chính sách của Việt Nam với Campuchia như thế nào thì Trung Quốc đều không có quyền tự phong mình làm kẻ trừng phạt.
Hiện nay chính quyền Bắc Kinh tiến hành xâm lược với cái cớ là trừng phạt người [mà họ gọi là] xâm lược thì là hoang đường, phi pháp, bởi vì họ căn bản chưa từng được bất kỳ cơ quan quốc tế nào ủy quyền cho phép họ trừng phạt người khác.
[Bắc Kinh] nói tấn công Việt Nam vì Việt Nam quấy nhiễu biên giới Trung Quốc, hoặc để giải quyết tranh chấp biên giới. Đây hoặc là sự cố ý nói sai sự thực, hoặc căn bản chỉ là lời một phía của Trung Quốc...
... Cho dù là thực sự giải quyết vấn đề lãnh thổ giữa Việt-Trung hay đơn giản là bảo đảm "vấn đề an ninh biên giới" của hai tỉnh Vân Nam-Quảng Tây [như phía Trung Quốc tuyên truyền], thì điều kiện đầu tiên phải là Trung Quốc - một quốc gia từng có thời kỳ lịch sử dài áp bức người Việt Nam - từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Sô vanh nước lớn và chủ nghĩa bá quyền, cần phải bình đẳng thực sự, thậm chí cần phải có thái độ nghiêng về phía Việt Nam để tiến hành đàm phán, hợp tác. Tuyệt đối không cho phép vì lý do nói trên mà dùng chiến tranh để áp bức, cưỡng ép họ phục tùng.
[Bắc Kinh] cáo buộc Việt Nam "vong ân phụ nghĩa" nên phải bị "trừng phạt" thì càng hoang đường. Nhân dân Trung Quốc cùng đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ là nghĩa vụ tối thiểu mà Trung Quốc cần phải thực hiện. Ở đây hoàn toàn không có chuyện ơn huệ. Việt Nam kháng chiến chống đế quốc và cuối cùng đánh bại kẻ địch thì đồng thời cũng giúp bảo vệ được biên cương phía Nam của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Nếu đề cập đến ơn huệ thì ngược lại Việt Nam mới có ơn với Trung Quốc. Trong toàn bộ thời kỳ chống Mỹ, Việt-Trung từng không ngừng nói rằng "chúng tôi ủng hộ lẫn nhau", vậy thì không ai nợ ai cả. Một khi Việt Nam không đồng tình với chính sách của Bắc Kinh thì vì sao liền nói rằng họ "vong ân phụ nghĩa"? Nếu có thể đưa ra lý do như vậy, thì sau khi Trung Quốc và Liên Xô trở mặt, Liên Xô cũng có thể nói Trung Quốc "vong ân phụ nghĩa" hay sao? Nếu [Liên Xô] dựa vào lý do này để tấn công Trung Quốc thì chính quyền Trung Quốc có cảm nghĩ như thế nào?
Một lý do còn kỳ quặc và hoang đường hơn nữa, là [Trung Quốc] nói động binh với Việt Nam để phá vỡ "thần thoại" về quân đội Việt Nam vô địch. Lý do như thế nhiều khả năng đến từ miệng lưỡi những nhà quân phiệt Trung Quốc cũ, chứ không thể nào tin rằng nó phát ra từ chính các lãnh đạo Trung Quốc hiện nay.
Sự vô địch của quân đội Việt Nam tuyệt đối không phải là thần thoại, bởi hoàn toàn có thể dùng khoa học xã hội cách mạng tối thiểu để giải thích được điều đó. Đội quân này có thể lần lượt đánh bại quân đội của hai đế quốc Pháp và Mỹ, suy cho cùng nguyên nhân đơn giản và rõ ràng: Một bên đại diện cho những người bị áp bức, đại diện cho cách mạng và chính nghĩa; Bên kia đại diện cho kẻ áp bức, phản cách mạng và phi chính nghĩa.
Sự đối đầu của hai sức mạnh này - nhìn từ quá trình tương đối lâu dài - thì cũng giống như thành ngữ Trung Quốc nói: Ai binh tất thắng. Đồng thời còn giống như một câu nói cổ khác ở Trung Quốc: Đắc đạo giả đa trợ - nghĩa là chiến tranh cách mạng chính nghĩa của những người bị áp bức đã giành được sự ủng hộ về tinh thần và vật chất của tất cả giai cấp vô sản tiến bộ và nhân sĩ tiến bộ trên toàn thế giới.
Như thế thì quân đội Việt Nam muốn không trở thành vô địch cũng không thể được. Hoàn cảnh tương tự cũng từng tạo ra sự vô địch của quân đội Trung Quốc. Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo quân đội Trung Quốc lần lượt đánh bại Nhật Bản, rồi Quốc dân đảng và quân đội Mỹ, lẽ nào chỉ nhờ quân đội Trung Quốc có vũ khí, chiến thuật và tố chất binh lính vượt trội lực lượng đối thủ hay sao? Tất cả đều biết rằng sự thực là ngược lại...
Tóm lại, việc chính quyền Trung Quốc quyết định tấn công Việt Nam là hoàn toàn không có lý do chính đáng. Vậy rốt cuộc vì lý do gì họ phải làm như vậy? Chúng ta phải tra xét rõ nguyên nhân thực sự...
... Nhằm gây dựng Chủ nghĩa xã hội trong một quốc gia tại đất nước Trung Quốc lạc hậu, trong 30 năm qua Trung Quốc đã thử tất cả các biện pháp có thể. Ban đầu là "nhất biên đảo" nghiêng về Liên Xô với hy vọng dựa vào sự "viện trợ vô tư" của "anh cả" để đạt được mục đích.
Năm 1958, trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc đề ra Tổng lộ trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, phong trào "Đại nhảy vọt", và Công xã nhân dân. Trước tháng 5/1960 đây được gọi là "Ba pháp bảo", từ sau tháng 5 gọi thành Tam diện hồng kỳ.
Sau khi bị thất vọng thì Trung Quốc nhấn mạnh tự lực cánh sinh. Con đường này từ Tam diện hồng kỳ phát triển cho tới Đại cách mạng văn hóa thì đến cực điểm. Tới đây lại có một chuyển biến lớn khác là ngả sang các nước tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là ngả về Mỹ - đế quốc giàu có nhất trong số các nước đó. [Trung Quốc] muốn lợi dụng tiền của và công nghệ của Mỹ để xây dựng Xã hội chủ nghĩa, thông qua đó chống lại Chủ nghĩa xét lại ở Liên Xô.
Hướng đi mới của Trung Quốc bắt đầu vào khoảng cuối thập niên 1960, thành quả ban đầu là vào năm 1972 khi [Tổng thống Mỹ] Nixon thăm Trung Quốc, cuối cùng hoàn thành mới đây khi Đặng Tiểu Bình tới Mỹ ký thỏa thuận. Từ khi áp dụng lộ trình này, Mao phái (những người ở bên ngoài Trung Quốc tin theo tư tưởng Mao Trạch Đông-ND) trên phương diện ngoại giao nhất quán phối hợp với chính sách của Mỹ: Bọn họ giúp Washington rút khỏi "vũng lầy" Việt Nam; Ủng hộ các thế lực bảo thủ thân phương Tây tại các quốc gia châu Phi mới nổi; Công khai bè phái với lực lượng phản động nhất ở Tây Âu; Từ bỏ tất cả viện trợ vận động cách mạng; Bọn họ tập trung vào duy trì hiện trạng của bất cứ khu vực nào trên thế giới (trừ Liên Xô và phạm vi thế lực của Liên Xô), ngay cả trong cuộc cách mạng gần đây tại Iran bọn họ cũng ủng hộ phe Quốc vương từ đầu đến cuối.
Xuất phát từ hướng đi này, Bắc Kinh coi tất cả thế lực chống Liên Xô đều là chiến hữu thân cận. Trong khi đó, tất cả các bên thân cận Liên Xô hoặc có ít nhiều tiếp cận Liên Xô, thậm chí dù là có khả năng chịu ảnh hưởng từ Liên Xô, thì bất kể là bản thân các bên này có tiến bộ hoặc cách mạng đến đâu cũng vẫn bị Bắc Kinh xem như kẻ thù.
"Kẻ thù của kẻ thù đều là bạn, bạn của kẻ thù đều là kẻ thù." Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đơn giản được diễn giải từ công thức này...
... Chúng tôi không đi vào chi tiết diễn biến quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam trong 30 năm qua. Tại đây, chúng tôi chỉ muốn chỉ ra sự thực cơ bản là: Những năm gần đây quan hệ Việt-Trung xấu đi, và trách nhiệm chủ yếu thuộc về phía Trung Quốc. Bởi thứ nhất, vì lợi ích bản thân, Trung Quốc đã câu kết với nước Mỹ khi đó đang xâm lược Việt Nam, không màng đến lợi ích của chiến tranh cách mạng Việt Nam. Thứ hai, Trung Quốc dù từng viện trợ lớn giúp Việt Nam kháng chiến, nhưng đồng thời ra sức buộc Hà Nội phải phụ thuộc ảnh hưởng của Bắc Kinh về mặt chính trị, coi như cái giá phải trả. Khi bị [Việt Nam] tỏ ý bất đồng, Bắc Kinh đã cắt viện trợ để đe dọa... Từ đó có thể thấy, nguyên nhân thực sự khiến Trung Quốc tấn công Việt Nam là từ chủ nghĩa dân tộc ích kỷ và chủ nghĩa bành trướng phản động...
... Tuy nhiên, chúng tôi chỉ ra nguyên nhân chân thực này tuyệt đối không phải vì chúng tôi muốn tỏ "thái độ siêu nhiên" trong cuộc chiến Việt-Trung hiện nay... Chúng tôi yêu cầu Trung Quốc ngay lập tức ngừng giết hại nhân dân Việt Nam, lập tức rút quân đội khỏi Việt Nam... Trung Quốc bắt buộc phải xin lỗi và bồi thường thiệt hại chiến tranh cho nhân dân Việt Nam.
Đồng thời, chúng ta cần phải vạch trần triệt để chiến lược phản động của Trung Quốc khi đưa Trung Quốc leo lên "chiến xa của Mỹ" (đã thể hiện rõ ràng trong sự kiện này). Chúng tôi yêu cầu [Trung Quốc] thay đổi triệt để chiến lược này, và yêu cầu xử lý người chịu trách nhiệm phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Read More

Dã tâm của Trung Quốc khi thông qua bộ luật hải cảnh

Leave a Comment

 Dã tâm của Trung Quốc khi thông qua Bộ luật Hải cảnh

Theo truyền thông Trung Quốc và quốc tế, Ủy ban thường vụ Quốc hội, cơ quan lập pháp tối cao của Trung Quốc ngày 22/1 đã thông qua Luật Hải cảnh. Bộ luật này cho phép lực lượng hải cảnh Trung Quốc sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để ngăn chặn hoặc đề phòng các mối đe dọa từ tàu nước ngoài (chỉ có TQ đe dọa tàu nước ngoài, các nước như Triều Tiên, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Philippines, Malaisia, Inđônêsia, các nước có chung đường biên trên biển với Trung Quốc hiện tại chưa nước nào đe dọa họ). Luật nêu ra các trường cụ thể trong đó các loại vũ khí cầm tay, vũ khí phóng từ tàu hải cảnh hay từ trên không được phép sử dụng (biến tàu hải cảnh thành tàu quân sự). Luật cho phép các nhân viên cảnh sát phá hủy các thực thể của nước ngoài xây dựng trên các đảo, thực thể đá mà Trung Quốc đòi chủ quyền (giành giật biển đảo từ các quốc gia láng giềng), đổ bộ và kiểm tra các tàu nước ngoài trong vùng biển mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ( mục đích kiểm soát Hoa Đông và Biển Đông). Luật còn trao quyền hải cảnh thiết lập các vùng cấm tạm thời, một hình thức trá hình của vùng nhận dạng phòng không trên biển (AZIZ) để ngăn chặn, kiểm soát tàu, máy bay các nước khác đi vào “vùng biển của Trung Quốc” (Vùng nhận dạng phòng không tiếng Anh là Air Defense Identification Zone, viết tắt là ADIZ . Trung Quốc cho rằng đó là vùng bầu trời trên biển do họ tự ấn định, đòi hỏi mọi máy bay dân sự xâm nhập vùng này phải nhận dạng, minh định vị trí, và chịu sự kiểm soát của họ).
Luật Hải cảnh của Trung Quốc chắc chắn sẽ làm gia tăng căng thẳng ở Hoa Đông và Biển Đông khi mà Bắc Kinh bị nhiều nước phản đối quyết liệt vì những hành động bành trướng và những đòi hỏi chủ quyền ngang ngược, vô lý. Để ngụy biện cho bộ luật hiện thực hóa mưu đồ độc chiếm các vùng biển quanh Trung Quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra thông báo luật trên phù hợp với “các thông lệ quốc tế” (không có cái thông lệ quốc tế nào như vậy cả). Họ giải thích bộ luật này là "cần thiết nhằm bảo vệ chủ quyền, an ninh và các quyền hàng hải của Trung Quốc" (thực ra Bắc Kinh xây dựng luật trong nước nhằm thay thế luật quốc tế để hợp thức hóa mưu đồ bành trướng trên biển bằng vũ lực, để kích động chủ nghĩa dân tộc và để lừa bịp người dân Trung Quốc hiện tại cũng như trong tương lai).
Bộ luật Hải cảnh được thông qua 7 năm sau khi Trung Quốc sáp nhập các cơ quan thực thi luật pháp hàng hải dân sự để thành lập Cục Hải cảnh. Cục này nằm dưới sự chỉ huy của cảnh sát Trung Quốc vào năm 2018. Nó đã trở thành một nhánh của các lực lượng vũ trang dưới vỏ bọc dân sự. Tôi đã chờ đợi xem các tổ chức quốc tế, các nước lớn, các quốc gia Đông Bắc Á, Đông Nam Á sẽ phản ứng như nào, nhưng mười ngày trôi qua chỉ có giới truyền thông, giới nghiên cứu sôi nổi bàn luận. Còn trên phương diện phát ngôn của các tổ chức quốc tế, các nhà nước, tất cả vẫn “im hơi lặng tiếng”. Phải chăng nhà cầm quyền Bắc Kinh đã ghi điểm? Chắc Bắc Kinh được đà ngông nghênh, tự đắc vì hiện tại không nước nào dám lên tiếng?
Bắc Kinh đã chọn thời điểm cực kỳ hợp lý thông qua Bộ luật Hải cảnh để tránh phản ứng của dư luận quốc tế. Thời điểm này gần như cả thế giới chìm trong sự bùng phát Virus Corona. Mọi sự quan tâm chú ý của chính quyền các nước, nhất là các nước lớn đều hướng vào vấn đề nóng hổi trong nước. Về mặt chính trị, tâm điểm thu hút sự chú ý của cả thể giới và của cả nước Mỹ trong những ngày này là cuộc chuyển giao quyền lực và lễ nhậm chức Tổng thống thứ 46 Joe Bidden. Có thể nói Trung Quốc đã tranh thủ “lén lút” thông qua bộ luật Hải cảnh nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Bộ luật Hải cảnh Trung Quốc ra đời trong bối cảnh tất cả các nước có chung đường biên với Trung Quốc đều đang xảy ra tranh chấp chủ quyền (họ cố tình tạo ra tranh chấp rồi giả nhân giả nghĩa đòi “thương lượng hòa bình”), đặc biệt với một số quốc gia Đông Nam Á ở Biển Đông. Bắc Kinh đã liên tục điều các đội tàu hải cảnh xâm nhập thềm lục địa của các nước, đuổi tàu cá của các nước, đâm chìm tàu cá của Philippines và Việt Nam.
Mỹ, Australia, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Malaisia, Indonesia… đã gửi công hàm phản đối lên Liên hợp quốc về tuyên bố chủ quyền, về hành động côn đồ trên cái gọi là "đường lưỡi bò phi pháp" của Trung Quốc. Truyền thông quốc tế cũng đồng loạt lên tiếng phản đối. Không lẽ Bắc Kinh im tiếng chịu trận trước quốc dân đồng bào. Họ phản ứng bằng bộ luật Hải cảnh. Đó là câu trả lời của Chính quyền Trung Quốc trước cơ quan đại diện cho 1,4 tỉ dân Trung Quốc, thể hiện “ý chí mạnh mẽ”, “quyết tâm cao độ”, “tầm nhìn chiến lược” cướp nước cướp biển. Và họ rất xứng đáng với cương vị lãnh đạo đất nước trên bước đường thực hiện giấc mơ bành trướng Trung Hoa!
Tôi cho rằng cái lõi của Bộ luât Hải cảnh là nhằm đối phó, ngăn chặn và cảnh báo các nước lớn can dự vào Biển Đông, Biển Hoa Đông. Đồng thời bộ luật này trở thành công cụ bành trướng lãnh thổ (vốn không thuộc về họ) trên biển nhằm giành giật vị trí chiến lược cho cuộc đua siêu cường với Mỹ, nhằm thỏa mãn lòng tham vô độ và giải tỏa cơn khát tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt và băng cháy để phục vụ cho sự phát triển của đất nước họ.
Nếu Mỹ và các nước phương Tây cũng như các cường quốc châu Á khác cho tàu quân sự tự do đi vào vùng biển người Trung Quốc ngộ nhận là của họ và nếu xảy ra đụng độ, họ sẽ la làng bị hải quân các nước bắt nạt tàu dân sự. Họ có thể gây ra rủi ro cho tàu chiến nước ngoài, nhưng vẫn không gây ra phản ứng dẫn tới chiến tranh. Nếu là tàu dân sự, có xảy ra đụng độ, họ sử dụng vũ khí từ tàu hải cảnh, từ máy bay giữ thế áp đảo đối phương. Chẳng may tàu các nước bị chìm thì cũng chỉ là sự đụng độ dân sự. Họ tin rằng với biện pháp này họ có thể răn đe, cảnh cáo, buộc các nước phải lùi bước trước ý chí của họ. Trung Quốc đã trắng trợn vi phạm luật quốc tế là không sử dụng vũ lực trong giải quyết tranh chấp. Họ đã vượt quá giới hạn nguyên tắc cơ bản trong quan hệ quốc tế.
Tôi tin trước mắt Bộ luật Hải cảnh chủ yếu nhằm vào Biển Đông. Bởi vì ở Biển Hoàng Hải và Biển Hoa đông, Trung Quốc chưa dám đối đầu với liên minh Mỹ-Hàn và liên minh Mỹ-Nhật, vì lực lượng chấp pháp của Hàn Quốc và Nhật bản ở vùng biển của họ không thua kém, thậm chí còn trội hơn Trung Quốc. Những điểm tranh chấp với Hàn Quốc và Nhật Bản thường ở xa Trung Quốc. Trung Quốc khó có thể sử dụng “chiến thuật biển người”, “ chiến thuật bầy đàn”, cậy đông bắt nạt. Còn quần đảo Senkaku/Điếu Ngư hiện Nhật đang kiểm soát nếu Trung Quốc đổ bộ hoặc tấn công thì chỉ riêng Nhật thôi Trung Quốc cũng không nuốt nổi huống chi quần đảo này nằm trong Hiệp ước An ninh chung Mỹ-Nhật.
Theo bài viết trên trang China News, những kẻ diều hâu ở Trung Quốc cho rằng Trung Quốc là một nước lớn chưa thống nhất, đó là nỗi nhục của “dân tộc Hoa Hạ”, là nỗi hổ thẹn của “con cháu Viêm Hoàng”. Để thống nhất đất nước và bảo vệ tôn nghiêm của dân tộc, trong vòng 50 năm tới, Trung Quốc cần phải tiến hành 6 cuộc chiến tranh. Cuộc chiến tranh thứ nhất là cuộc chiến thống nhất Đài Loan giai đoạn 2020 – 2025 (cuộc chiến này tôi không bàn vì đó là vấn đề nội bộ của họ). Nhưng nếu nó xảy ra như dự tính thì họ sẽ bắt đầu cuộc chiến thứ 2.
Cuộc chiến tranh thứ hai là cuộc chiến thu hồi các đảo tại Biển Đông và được tiến hành vào khoảng năm 2025 đến năm 2030. Họ cho rằng sau khi Trung Quốc thống nhất Đài Loan, nghỉ ngơi chỉnh đốn nhiều nhất là 2 năm, trong khoảng thời gian này Trung Quốc tuyên bố với các nước có tranh chấp tại Biển Đông về thời hạn cuối cùng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo là năm 2028 (thời hạn cho cuộc chiến này còn 7 năm nữa). Tất cả các nước có thể đàm phán với Trung Quốc trong khoảng thời gian này. Trung Quốc sẽ xuất phát từ quan điểm “láng giềng hữu nghị”, “hợp tác toàn diện” và “phong cách nước lớn” có thể “bảo đảm một phần lợi ích kinh tế” của các nước xung quanh. Nếu các nước không khuất phục, Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực để thu hồi các đảo, đồng thời tịch thu toàn bộ lợi ích kinh tế, cũng như các khoản đầu tư trên các đảo này (thật bỉ ổi).
Trung Quốc đã dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam từ năm 1956 đến năm 1974. Họ cũng đã xâm chiếm 7 đảo Trường Sa của Việt Nam năm 1988 và sau đó xâm chiếm một số đảo của Philippines và tiếp tục tạo ra tranh chấp trên biển với Việt Nam, Phillippines, Malaisia, Indonesis, Brunei. Bộ luật Hải cảnh là bước đi tiếp trong kế hoạch độc chiếm toàn bộ Biển Đông. Với bộ luật này, trong năm 2021 và những năm tiếp theo Trung Quốc sẽ làm gì ở Biển Đông?
1. Tiếp tục xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của các nước trong khu vực; dùng thủ đoạn tạo ra tranh chấp rồi đòi thương lượng hòa bình để giải quyết tranh chấp theo kiểu vừa ăn cướp vừa la làng.
2. Dùng tàu Hài cảnh kiểm soát đường lưỡi bò trên thực địa.
3. Ngăn chặn ngư dân nước ngoài đánh bắt cá trên vùng biển thuộc quyền, chủ quyền của các nước theo luật pháp quốc tế.
4. Ngăn cản và răn đe tất cả các công ty, tập đoàn dầu khí của các nước sở tại và liên doanh với các nước bên ngoài khai thác trên cái đường lưỡi bò tự vẽ ra.
5. Từng bước thay thế luật biển quốc tế bằng luật trong nước.
Bộ luật Hải cảnh của Trung Quốc vừa được thông qua phản ánh rõ tư tưởng bành trướng Đại Hán của giới cầm quyền Bắc Kinh. Tôi nghĩ tất cả các nước phải hết sức cảnh giác. Đúng như cố Giáo sư Trần Đình Hượu đã chỉ ra, chủ nghĩa bành trướng Đại Hán là tư tưởng hiếu chiến, hống hách và ảo tưởng. Đó là hành động xâm lược lãnh thổ được ngụy trang bằng những lời lẽ nhân nghĩa, đạo lý. Bản chất của nó là dựa vào sự lừa dối với những thủ đoạn cực kỳ tinh vi. Đó là một trong những cách thức làm tăng vị thế của chính quyền Bắc Kinh, cách đẩy mâu thuẫn bên trong ra bên ngoài, lấy ngoài yên trong. Tư tưởng này trở thành nguyên nhân gây ra những hành động phiêu lưu sắp tới nhằm thay đổi hiện trạng khu vực trong tương lai, nhằm hiện thực hóa giấc mơ “Trung Hoa vĩ đại” của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Read More

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.