Quan hệ Mỹ-Trung sẽ đi về đâu (phần 3)

Leave a Comment

 Quan hệ Mỹ Trung từ tháng 1/2017 đến hết năm 2020 (thời gian Dolnad Trumpt được bầu làm Tổng thống thứ 45 của Mỹ).

Có lẽ Trung Quốc là quốc gia bên ngoài quan tâm nhất đến việc ai sẽ là tổng thống tiếp theo của xứ cờ hoa khi Tổng thống Barack Obama mãn nhiệm. Họ không thích bà Hillary Clinton, người đàn bà thép không có thiện cảm với Trung Quốc là tổng thống. Họ thở phào khi Donald Trumpt, một doanh nhân đắc cử. Đầu tháng 4/2017, Trung Quốc đã hy vọng về mối quan hệ Mỹ-Trung bình lặng sau khi hai nguyên thủ quốc gia gặp nhau ở Ma-a-Lago, Florida. Trump và Tập cũng đã có một số cuộc hội đàm bên nhau thân thiện trong một hai năm đầu. Nhưng “tình bạn tốt đẹp” của họ nhanh chóng chìm vào dĩ vãng.
1. Những động thái mới của Trung Quốc.
Về kinh tế Trung Quốc thúc đẩy Sáng kiến Vành đai và Con đường lấy Trung Quốc làm trung tâm để tăng cường ảnh hưởng trên toàn cầu; chuyển đổi mô hình sản xuất, thúc đẩy sản xuất công nghệ cao nhằm biến Trung Quốc thành cường quốc công nghệ (Made in China). Về chính trị Trung Quốc tăng cường siết chặt hệ thống luật pháp, chính sách dân tộc, thông qua Luật An ninh Hồng Kông; gây áp lực mạnh với Đài Loan. Về đối ngoại, Trung Quốc gia tăng vị thế, vai trò của Trung Quốc ở các diễn đàn, ở các tổ chức đa phương như một người đi tiên phong khi Tổng thống Trump từ bỏ vai trò người dẫn dắt. Ở Đông Bắc Á họ gia tăng sức ép với Bình Nhưỡng về vấn đề hạt nhân. Họ chủ động giảm bớt căng thẳng với Nhật Bản ở Hoa Đông, nhưng lại tăng cường các hoạt động hiện thực hóa đường lưỡi bò trên Biển Đông.
Tháng 7/2017 đến tháng 3/2018, Trung Quốc sử dụng các loại tầu thăm dò, tàu đánh cá, tàu tuần duyên, hải cảnh đi vào vùng biển của Việt Nam, Philippines, Malaisia, Inđônêsia. Họ đe dọa không cho Việt Nam và hãng Respol của Tây Ban Nha khoan dầu tại thềm lục địa tại bãi Tư Chính của Việt Nam. Họ dùng mọi thủ đoạn ép các công ty dầu khí nước ngoài như Rosnept của Nga, Exxon Mobil và các hãng dầu khí khác của phương Tây phải dừng kế hoạch khai thác ở mỏ khí Cá Voi Xanh của Việt Nam. Họ cũng liên tục hành động tương tự như vậy với Malaisia, tăng cường hoạt động ở thềm lục địa của Inđônêsia để khẳng định yêu sách đường lưỡi bò nhằm chiếm trọn gần hết Biển Đông.
Về Quân sự, Trung Quốc đẩy mạnh chiến lược biển, đóng nhiều tàu chiến, tàu ngầm, xây dựng nhiều căn cứ hải quân, kể cả căn cứ ở nước ngoài. Trung Quốc tăng cường tập trận ở các vùng biển. Đặc biệt họ tuyên bố đưa tàu sân bay thứ hai vào hoạt động tại Biển Đông nhằm gây sức ép với các nước Đông Nam Á và thách thức vai trò của Mỹ ở Đông Nam Á. Họ tiếp tục bồi đắp trái phép 7 đảo đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam thành đảo nhân tạo trong giai đoạn 2013-2017 và quân sự hóa 7 đảo biến chúng thành tiền đồn khi xây dựng đường băng, bố trí hệ thống radar và thông tin liên lạc. Đến năm 2018 họ đưa các loại tên lửa ra đảo trực chiến.
Các chuyên gia của Mỹ cho rằng mục đích quân sự hóa dảo của Trung Quốc khi bồi đắp các đảo nhân tạo là giành ưu thế thông tin đối phó với lợi thế quân sự của Mỹ trong khu vực. Chúng có thể được trang bị năng lực chỉ huy, kiểm soát, liên lạc, tình báo, do thám và trinh sát. Chuyên gia nghiên cứu quốc tế S. Rajaratnam của Singapore cho rằng các tiền đồn Trung Quốc xây dựng trái phép ở Trường Sa còn có thể là yếu tố giúp tăng cường sức mạnh cho quân đội Trung Quốc khi xung đột tiềm tàng xảy ra. Người ta cho rằng các hòn đảo nhân tạo này đóng vai trò thiết yếu để ngăn Washington can thiệp khi bùng phát xung đột giữa Bắc Kinh và đảo Đài Loan. Từ những căn cứ này Trung Quốc có thể tấn công các căn cứ quân sự trên biển, trên đất liền, kể cả căn cứ quân sự Guam trọng yếu của Mỹ.
2. Những động thái mới của Mỹ.
Ngày 22/3/2018 cuộc chiến thương mại Mỹ -Trung do Mỹ phát động chính thức bắt đầu. Tổng thống Dolnald Trump đã áp dụng mức thuế 50 tỷ đô la với các hàng hóa Trung Quốc để ngăn chặn hành vi thương mại không công bằng, hành vi thao túng tiền tệ, hành vị trộm cắp tài sản trí tuệ. Danh sách các mặt hàng bị áp thuế tập trung chủ yếu vào các sản phẩm theo kế hoạch Made in China, liên quan đến công nghệ thông tin, robot và trí tuệ nhân tạo. Khi Trung Quốc đáp trả áp thuế với các mặt hàng nhập khẩu của Mỹ, ngày 17/9/2018 Chính quyền Trump tiếp tục đánh thuế 10% đối với hàng nhập khẩu trị giá 200 tỷ đô la. Đến ngày 10/5/2019 Mỹ tiếp tục áp thuế 25% với 200 tỷ đô la hàng hóa nhập khầu của Trung Quốc vào Mỹ nhằm ngăn chặn dòng tiền hơn 500 tỷ đô từ Mỹ chảy về Trung Quốc.
Từ chiến tranh thương mại, Chính quyền Trump tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực khác, cuộc chiến công nghệ. Tháng 5/2019, Bộ Thương mại Mỹ cấm các công ty Mỹ cung cấp linh kiện và các phần mềm cho công ty công nghệ Huawei của Trung Quốc. Mỹ cũng phát động một chiến dịch toàn cầu chống lại Huawei lắp đặt hệ thống 5G vì lý do an ninh quốc gia. Tháng 8/2020, Chính quyền Trump tiếp tục tấn công các doanh nghiệp công nghệ Trung quốc bằng việc cấm người Mỹ và các doanh nghiệp Mỹ tiến hành các hoạt động giao dịch với công ty mẹ của TikTok là Bydance và công ty mẹ của WeChad là Tencent. Ngày càng nhiều doanh nghiệp viễn thông, thương mại trực tuyến, kỹ thuật điện toán đám mây, xây dựng cáp quang của Trung Quốc gặp phải thách thức trên thị trường toàn cầu. Cuộc chiến công nghệ của Mỹ còn vượt ra ngoài phạm vi công nghệ, lan sang lĩnh vực an ninh mạng cũng như các chương trình ứng dụng khác. Gần đây chính quyền Trump còn đẩy mâu thuẫn Mỹ-Trung lên một nấc thang mới như đưa một loạt công ty có liên quan đến quân đội của Trung Quốc vào danh sách đen, cấm tiếp cận với nguồn tài chính của Mỹ hoặc cấm vốn hóa tại Mỹ như tập đoàn dầu khí quốc gia, nhà sản xuất bán dẫn SMIC, công ty công nghệ nghệ xây dựng, công ty tư vấn thiết kế quốc tế xây dựng. Đỉnh điểm là Mỹ đóng cửa lãnh sự quán Trung Quốc ở Houston với cáo buộc là ổ gián điệp, hạn chế visa của các đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc và con em của họ vào Mỹ, giám sát hàng ngàn nhà khoa học Trung Quốc liên quan đến gián điệp…
Đằng sau cuộc chiến thương mại, công nghệ là sự mâu thuẫn, sự đối đầu về hai mô hình kinh tế, mô hình kinh tế của Mỹ, phương Tây và mô hình kinh tế Chủ nghĩa tư bản nhà nước (state capitalism) của Trung Quốc. Đó là cuộc chiến về vị thế công nghệ của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu. Liệu cuộc chiến thương mại công nghệ có làm thay đổi chính sách của Trung Quốc, có làm thay đổi bản đồ Biển Đông hay không, nhưng chắc chắn thế và lực của Trung Quốc bắt đầu chững lại, không còn như năm 2017, 2018.
Song song với cuộc chiến thương mại và công nghệ, Chính quyền Trump mở rộng chính sách xoay trục của chính quyền tiền nhiệm bằng chính sách Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương tự do và rộng mở; tăng cường hợp tác về mọi mặt với ASEAN; ban hành Đạo luật Sáng kiến Trấn an châu Á, cam kết viện trợ năng lực quốc phòng cho các đồng minh và đối tác châu Á; thúc đẩy sự hợp tác chặt chẽ song phương và đa phương, nhất là hợp tác quốc phòng và tập trận trong bộ tứ kim cương Mỹ, Nhật, Ấn, Úc nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Trung Quốc.
Thượng Viện Mỹ đã thông qua Đạo luật chuẩn chi Quốc phòng với 716 tỷ đô la cho năm 2019, 740,5 tỷ đô la cho năm 2021. Mỹ hy vọng đủ nguồn lực đầu tư vào các chương trình quốc phòng mới như phát triển năng lực chiến tranh không gian, tên lửa tầm trung, máy bay và và tàu chiến thế hệ mới để đối phó với Trung Quốc. Đáng chú ý nhất là đầu tháng 12/2020 Mỹ quyết định tái lập hạm đội 1 chuyên trách ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương nhằm kiểm soát khu vực có 80 % hàng hóa quốc tế đi qua, nơi có 80 % lượng dầu của Trung Quốc trung chuyển nhằm chuẩn bị cho kế hoach phong tỏa nếu xung đột Mỹ-Trung nổ ra. Bộ trưởng Hải quâm Mỹ đã tuyên bố: “Việc làm này tái khẳng định cam kết với các đối tác đồng minh về sự hiện diện của Mỹ ở khu vực, đồng thời nhắc nhở các đối tác tiềm tàng về cam kết của Mỹ trong việc hiện diện toàn cầu để đảm bảo luật pháp và tự do hàng hải”. Nhiều chuyên gia quốc tế đã nhận xét, Trung Quốc phụ thuộc vào Ấn Độ Dương hơn là Tây Thái Bình Dương. Việc xuất hiện hạm đội 1 giống như việc siết chặt yết hầu Trung Quốc. Hạm đội này sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lợi ích phát triển của Trung Quốc trong chuỗi cung ứng năng lượng và đầu tư vào các dự án Vành đai và Con đường.
Mỹ cũng tuyên bố ủng hộ chủ quyền của các nước trên Biển Đông, tăng cường khai thác tài nguyên tại Biển Đông với các đối tác dù Trung Quốc có muốn hay không muốn. Ngày 31/12/2018 Chính quyền Trump ban hành đạo luật Sáng kiến Trấn an châu Á nhằm hỗ trợ cho các đồng minh và đối tác ASEAN (Asia Reassurance Intiative Act). Đây là chiến lược ngoại giao lâu dài, có đánh giá hàng năm của Mỹ cho khu vực ASEAN, đề cao vai trò trung tâm của ASEAN; ủng hộ Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông COC, một bộ luật biển khu vực quy định các bên phải tôn trọng luật quốc tế về biển, tôn trọng quyền và chủ quyền các nước, giải quyết hòa bình các tranh chấp. Trong đó có điều khoản Việt Nam đề xuất là cấm thiết lập bất cứ khu vực nhận dạng phòng không mới nào trên Biển Đông.
3 Chính sách bước ngoặt của Mỹ ở Biển Đông
Rạng sáng ngày 3/6/ 2020, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo thông báo nước này đã gửi công hàm lên Liên Hiệp Quốc để phản đối tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông. Mỹ yêu cầu gửi công hàm phản đối đến tất cả các thành viên của LHQ, đồng thời đăng tải công khai trên website của văn phòng pháp chế LHQ. Có thể nói đây là lần đầu tiên, là một bước ngoặt mới trong quan hệ Mỹ-Trung ở Biển Đông và là thách thức rất lớn với Trung Quốc sau Phán quyết Tòa Trọng tài bác bỏ chủ quyền lịch sử cũng như đường lưỡi bò của Trung Quốc.
Nhiều chuyên gia nhận định, theo thông lệ ngoại giao, khi Mỹ gửi công hàm phản đối một vấn đề lên Liên Hợp Quốc, nếu Trung Quốc không tuân thủ, thì Washington sẽ có động thái trừng phạt. Việc Mỹ gửi công hàm phản đối lên LHQ là một sự kiện đáng chú ý trong chính sách của nước này đối với vấn đề Biển Đông. Có khả năng Mỹ sẽ sử dụng các biện pháp trừng phạt về kinh tế, hoặc thậm chí là quân sự. Mỹ sẽ sớm đặt ra hình thức chế tài kinh tế, quân sự buộc Trung quốc phải thay đổi chính sách. Và một giai đoạn mới mở ra, cho thấy Mỹ sẽ can thiệp mạnh mẽ hơn về vấn đề Biển Đông.
Chính quyền Trump không chỉ phản đối bằng ngoại giao mà thực tế, trong nhiệm kỳ của mình, Chính quyền Trump liên tục phản ứng với tuyên bố chủ quyền cũng như hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông. Tháng 11/2019, Bộ Ngoại giao Mỹ phát hành báo cáo “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương tự do và rộng mở: Thúc đẩy tầm nhìn chung”. Trong đó, Washington khẳng định Mỹ sẽ hợp tác cùng các nước trong khu vực để duy trì tự do hàng hải và tận dụng nhiều biện pháp khác nhau để tất cả các quốc gia có thể cùng chia sẻ lợi ích từ biển. Cùng với Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã lên tiếng phản đối việc tàu hải cảnh Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, ngăn cản Việt Nam và các đối tác khai thác dầu khí. Không chỉ phản ứng bằng các thông điệp mạnh mẽ, Washington còn điều động một lực lượng quân sự hùng hậu đi vào phạm vi 12 hải lý các đảo Trung Quốc chiếm đóng trái phép để thách thức các hành vi của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Từ cuối tháng 4/2020 đến nay, máy bay ném bom chiến lược tầm xa B-1 Lancer của không quân Mỹ liên tục hoạt động ở Biển Đông. Bên cạnh đó, Lầu Năm Góc còn điều động nhiều loại tàu chiến như tàu tác chiến cận bờ, tàu khu trục, tàu tuần dương, tàu đổ bộ tấn công mang chiến đấu cơ thế hệ 5 tàng hình F-35, tàu đổ bộ vận tải cho đến tàu sân bay, tàu ngầm hạt nhân tăng cường hoạt động tại Biển Đông. Đáng chú ý nhất là gần đây, hải quân Mỹ lần lượt tổ chức tập trận chung cùng hải quân Úc và hải quân Singapore trên Biển Đông. Đặc biệt là cuộc tập trận chung của bộ tứ Mỹ, Nhật, Ấn, Úc nhằm gửi tới Trung Quốc những thông điệp rất cứng rắn.
Chính sách của Mỹ ở Biển Đông kéo theo một phản ứng dây chuyền. Tháng 7/2020 Úc gửi công hàm bác bỏ yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông. Tiếp theo sau là Anh, Đức, Pháp và một số nước cũng gửi công hàm tới Liên Hợp Quốc bác bỏ yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông. Như vây không chỉ có các nước Đông Nam Á hải đảo, Ấn, Nhật mà đa số các nước phương Tây đều phản đối yêu sách của Trung Quốc. Có thể kết luận hính sách ngăn cản quốc tế hóa Biển Đông của Trung Quốc đã hoàn toàn thất bại.
Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 2018 trở đi sẽ là một giai đoạn đầy thách thức khó khăn đối với cả hai bên. Họ vẫn là đối thủ hợp tác và cạnh tranh, nhưng họ là hai đối thủ nguy hiểm, việc canh tranh cũng ngày càng trở nên nguy hiểm, nhất là việc cạnh tranh chạy đua về mặt quân sự. Với Trung Hoa, bài học về sự sụp đổ của Liên Xô vẫn còn mang tính thời sự. Với Mỹ, cuộc chiến tranh lạnh thời kỳ 1950 đến 1991 vẫn còn để lại quá nhiều di chứng. Tuy nhiên, cuộc chiến thầm lặng giữa hai nước trên nhiều mặt trận thực sự đã bắt đầu.
Xét về mặt địa chính trị, Trung Quốc chưa được gì ngoài gần chục hòn đảo đá chơ vơ ở Biển Đông. Còn Mỹ thì đang hoàn thành giai đoạn cuối của một chiến lược tổng thể. Thực tế Mỹ có nhiều bài hơn so với Trung Quốc. Và hình như người Mỹ vẫn chưa có ý định đối đầu trực tiếp với Trung Quốc.
So với Mỹ, Trung Quốc ở thế bất lợi hơn. Trung Quốc gần như là một cường quốc đơn độc, bị Mỹ bao vây bởi nhiều nước có quan hệ đồng minh, quan hệ đối tác với Mỹ. Từ Đông Bắc Á (tôi sẽ đề cập đến quan hệ Mỹ-Trung ở Đông Bắc Á trong loạt bài viết sau) đến Đông Nam Á, Nam Á, từ Hàn Quốc, Đài Loan đến Nhật Bản, Phillipines đến Úc và Ấn Độ, tất cả đang hình thành một mạng lưới, một thế trận làm phức tạp hơn rất nhiều cho những toan tính làm bá chủ châu Á của Bắc Kinh.
Tại sao Mỹ lại tập hợp được các nước đồng minh và nhiều đối tác như vậy? Do lịch sử để lại, do Mỹ đã đồng nhất được lợi ích của mình với lợi ích của các đồng minh và các nước đối tác. Nhân tố cơ bản giúp Mỹ thành công đó là tự do hàng hải phù hợp với luật quốc tế cũng như quyền, quyền chủ quyền và những lợi ích biển hợp pháp của tất cả các nước Đông Á.
Để trỗi dậy trở thành cường quốc đứng đầu châu Á, Trung Quốc phải “trỗi dậy một cách an toàn ở châu Á” trước khi đối đầu với Mỹ. Trung Quốc phải khuất phục được Nhật Bản. Hai nước Nhật-Trung đã không chung sống hòa bình trong suốt hàng nghìn năm qua. Trong lịch sử cận đại, hiện đại, quan hệ giữa hai nước có không ít thù hận. Trung Quốc đã từng bị Nhật Bản thống trị. Và giờ đây liệu một Trung Quốc đầy tham vọng muốn chi phối trật tự châu Á và một Nhật Bản hùng cường, với sự lãnh đạo của Chính quyền Shinzo Abe đã và đang thay đổi hiến pháp hòa bình, liệu Trung Quốc có thể chia sẻ lợi ích và vị thế cùng tồn tại mà không xảy ra chiến tranh? Và đằng sau Nhật là liên minh Mỹ-Nhật ràng buộc (hiện Mỹ còn có các căn cứ quân sự cùng với hạm đội 7 và 40 nghìn quân đóng ở Nhật). Liệu liên minh này có biến giấc mơ Trung Hoa vĩ đại trở thành giấc mơ hồ điêp?
Cũng như vậy với Ấn Độ, liệu Trung Quốc có thể khuất phục được Ấn Độ, một cường quốc hạt nhân đang trỗi dậy đầy tiềm năng về kinh tế. Liệu có thể xảy ra một cuộc chiến tranh Trung-Ấn như năm 1962? Đến bây giờ Trung Quốc vẫn còn chiếm đến 20.000 km vuông của Ấn Độ, chắc người Ấn vẫn chưa quên chuyện cũ và hiện tại họ đã chuẩn bị rất kỹ cả về tâm thế và thực lực. Đầu tư quân sự của Ấn Độ ngày càng ấn tượng cùng với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế là điều thách thức lớn với Trung Quốc. Nếu Trung Quốc là một con rồng thì Ấn Độ là một con voi. Sự thay đổi chính sách chính trị, kinh tế và quân sự của Thủ tướng Narenda Modi thực sự đang cản trở “giấc mơ Trung Hoa”. Trong khi đó, chưa bao giờ quan hệ Mỹ-Ấn lại gần gũi nhau như hiện tại. Họ cùng chia sẻ cơ sở vật chất quân sự, chia sẻ công nghệ sản xuất máy bay và một số loại vũ khí. Nếu chiến tranh xảy ra, một liên minh Ấn-Mỹ ở cửa ngõ chắc rằng Trung Quốc phải tính đến.
Trung Quốc có tham vọng chiếm trọn Biển Đông và áp đặt ý chí lên các nước Đông Nam Á. Trung Quốc đã sử dụng vũ khí kinh tế và quân sự để thực hiện phương thức “thống trị” theo cách thức của chủ nghĩa thực dân cũ (cách thức này họ có gien và đã thực hiện với các nước láng giềng), cộng thêm với cách thức của chủ nghĩa thực dân mới (cách thức này họ đã và đang học), biến Đông Nam Á trở thành sân sau của họ. Mười quốc gia trong ASEAN đã và đang khẳng định vai trò trung tâm trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ấn Độ, Mỹ, Nhật Bản, Liên minh châu Âu, cả thế giới trong đó có Trung Quốc đều thừa nhận vai trò trung tâm của ASEAN. Tất cả các nước (ngoài Campuchia) đều đã là đối tác, thậm chí có nước là đồng minh, có xu hướng kết bạn với Mỹ để cân bằng trước một con rồng đang hét ra lửa. Và Mỹ cũng đang muốn kéo họ vào một liên minh, tăng cường năng lực quân sự cho các nước. Nếu Trung Quốc gây chiến, chắc các nước đều không chịu cúi đầu như hàng ngàn năm lịch sử đã chứng minh. Dư luận thế giới chắc chắn cũng không cho phép Trung Quốc thay đổi bản đồ khu vực bản đồ Đông Nam Á. Nếu có chiến tranh, lực lượng quân sự của Mỹ ở Guam, ở Philippines, ở Darwin, từ những địa điểm đáng tin cậy chắc sẽ triển khai lực lượng.
Trong đối thoại chiến lược Mỹ - Trung năm 2009, Tổng thống Mỹ Barack Obama có nói : “Chúng ta không thể dự đoán chắc chắn tương lai sẽ như thế nào, nhưng chúng ta biết điều này: Mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ định hình thế kỷ 21”. Mối quan hệ Mỹ - Trung không yên ả kể từ khi diễn ra cuộc Chiến tranh lạnh. Nó chuyển từ đối đầu sang bình thường hóa, cạnh tranh xen lẫn hợp tác, và chuyển sang rất căng thẳng dưới thời Tổng thống Donald Trump (dù sau cuộc bầu cử lần này ông Trump không còn làm tổng thống nhưng di sản ông để lại quá ấn tượng và nhiều nước ở châu Á ủng hộ).
Trong các cuộc chiến tranh lớn ở bên ngoài, gần như người Mỹ không khai chiến từ ban đầu, họ thường để cho các đối thủ giao chiến đến một mức độ nào đó rồi mới tham gia. Phải chăng Mỹ đang áp dụng chiêu thức này trước một Trung Quốc đang khoe cơ bắp với các nước láng giềng. Theo Reuter chi tiêu quốc phòng Trung Hoa năm 2016 là 146,67 tỉ đô la, mức tăng này lên đến 177,6 tỷ trong năm 2019. Ngoài Trung Quốc, các nước Đông Á cũng có mức chi tiêu quốc phòng vào loại cao nhất thế giới. Chuyện gì sẽ xảy ra khi mà các bên đều tăng cường tiềm lực quốc phòng? Liệu Biển Đông có là ngòi nổ cho thế chiến thứ 3? Người Trung Quốc có truyền thống “Tọa sơn quan hổ đấu” và đúng là họ đã đứng ngoài xem Mỹ-Liên Xô đấu nhau gần nửa thể kỉ trước, đứng ngoài xem Mỹ-Khủng bố đấu nhau từ năm 2001 đến nay để hưởng lợi. Bây giờ đã đến lúc họ đấu với Mỹ chưa? Liệu một cuộc chiến Mỹ-Trung hay một cuộc chiến ở châu Á-Thái Bình Dương có xảy ra trong thời gian tới? Chúng ta sẽ cùng theo dõi.
Read More

Quan hệ Mỹ-Trung sẽ đi về đâu (phần 2)

Leave a Comment

  Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 2010 đến hết năm 2016.

Sự thay đổi chiến lược của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Trước và sau năm 2010 có một số nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc muốn đi theo con đường của Đặng Tiểu Bình, đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế lớn nhất, nhưng sẽ không tranh bá. Lịch sử các cường quốc trong quá khứ như Đế quốc La Mã, Đế quốc Nguyên Mông mà Trung Hoa là một phần, Đế quốc Anh và gần đây nhất là Liên Xô… Tất cả đã cho Bắc Kinh nhiều bài học cay đắng về số phận của những “anh cả” trên trường quốc tế. Những người theo quan điểm này muốn Bắc Kinh thực hiện một chiến lược lâu dài: Hợp tác, canh tranh và tránh xung đột với Mỹ. Họ khuyến cáo phải hết sức thận trọng, tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ cho đến khi tiềm lực kinh tế và quân sự của họ thay đổi về chất và ở trong tình trạng đã hoàn toàn sẵn sàng. Họ cho rằng trước mắt Trung Quốc cần trỗi dậy một cách an toàn ở châu Á mà không gây ra bất kỳ xung đột nghiêm trọng nào ở khu vực.
Từ khi Tập Cận Bình nắm chính quyền, ông ủng hộ chủ nghĩa dân tộc, siết chặt xã hội dân sự, tăng cường cải cách và chống tham nhũng. Ông và ban lãnh đạo cho rằng tình hình thế giới đã có lợi cho Trung Quốc. Nhất là sau khủng hoàng tài chính 2007-2008, nước Mỹ có một số biểu hiện suy yếu. Bắc Kinh quyết định chấm dứt thời kỳ ẩn náu, bước vào thời kỳ thể hiện nước lớn, chuẩn bị cho thời kỳ phát triển trưởng thành. Bắc Kinh bắt đầu nóng vội đẩy nhanh “giấc mơ Trung Hoa vĩ đại”.
Trên trường quốc tế, Bắc kinh hành động tự tin đến tự mãn, quyết đoán đến hung hăng, bất chấp mọi thủ đoạn để thực hiện được các mục tiêu đề ra. Chính sách của Bắc kinh dựa trên hai trụ cột chính: Sức mạnh kinh tế và vị thế quốc tế; từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời”, thực hiện chính sách bành trướng cứng rắn ở Hoa Đông, Biển Đông, gây áp lực với Nhật Bản, Việt Nam, Philippines; tăng cường ảnh hưởng ở Myanma, Lào, Campuchia; thiết lập quan hệ kiểu mới với các nước lớn…
Theo quy luật lịch sử, giữa một cường quốc đứng đầu và một cường quốc có tham vọng thay thế, nhiều khả năng dẫn đến chiến tranh. Ngay ở Trung Quốc nhiều người cũng đặt vấn đề chiến tranh Trung-Mỹ là không thể tránh khỏi. Trên thực tế, giới quân sự diều hâu Trung Quốc đã lên kế hoạch đánh chiếm Đài Loan, thu hồi toàn bộ Biển Đông bằng cây gậy và củ cà rốt. Đúng là Trung Hoa đang nổi lên và trở thành một cường quốc lớn sau nhiều thế kỷ bị ngoại bang xâm chiếm và chia cắt. Bắc Kinh đã và đang thách thức Mỹ, các cường quốc châu Á và các quốc gia láng giềng về năng lực phòng thủ cũng như tấn công của họ.
Về kinh tế, Tập đưa ra Sáng kiến Vành đai và Con đường lấy Trung Quốc là trung tâm để mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ra toàn cầu. Về Chính sách đối ngoại Tập thực thi đường lối quyết đoán trong quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc, tuyên bố chủ quyền toàn bộ Biển Đông...
Bắc kinh đang đi chênh vênh giữa hai chính sách diều hâu và ôn hòa. Trước mắt họ đang tìm cách gây áp lực với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản; tìm cách áp đặt ý chí và đưa Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng. Họ sử dụng các phương tiện phi đối xứng như bồi đắp tôn tạo các rạn đá ở Biển Đông, mở rộng khu vực hải quân và không phận bên cạnh việc tuyên bố chủ quyền lịch sử để khẳng định sức mạnh và lợi ích của mình. Họ có đòn bẩy kinh tế, có khả năng quân sự. Họ đã phô diễn sức mạnh cơ bắp. Vấn đề là họ sẽ đi xa đến đâu và kết quả cuối cùng trong việc thay đổi cán cân quyền lực sẽ diễn ra như thế nào ở châu Á-Thái Bình Dương.
Năm 2014 Trung Quốc thông qua Chính sách phát triển về biển mang đặc sắc Trung Quốc, thể hiện khát vọng trở thành cường quốc biển để đối đầu với Mỹ. Có nhiều dấu hiệu chắc chắn cho thấy Trung Quốc đã, đang và sẽ đi theo con đường phát triển truyền thống của các cường quốc trong lịch sử như Tây Ban Nha, Anh, Nga, Nhật, Mỹ: Phát triển sức mạnh biển với lực lượng hải quân là trung tâm theo điều kiện, hoàn cảnh của Trung Quốc. Họ không chỉ tập trung vào hải quân và thương mại như các cường quốc trước đây mà còn quyết tâm xây dựng một chiến lược biển toàn diện, phối hợp nhiều lực lượng như hải cảnh, tuần duyên, lực lượng dân sự đánh cá hùng hậu. Họ có ý định phát triển chiến lược biển thành một cuộc chiến tranh nhân dân trên biển; ra sức tôn tạo xây dựng các đảo và bãi đá ngầm thành các căn cứ quân sự… Tất cả nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp giành lấy lợi thế chiến lược trước các cường quốc trong và ngoài khu vực, đẩy Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi Biển Đông, đồng thời ép các nước nhỏ trong khu vực phụ thuộc vào ý chí của Trung Quốc.
Về Quân sự, để chống lại một cuộc tấn công giả định của Mỹ và các đồng minh vào các khu vực trọng điểm kinh tế phía đông, Trung Quốc đã xây dựng chiến lược chống tiếp cận (Anti-Access/ Area Denial-A2/AD). Rút kinh nghiệm bài học về khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 3, Mỹ đưa nhóm tàu sân bay đến bảo vệ Đài Loan vào năm 1996-1997, buộc Trung Quốc phải xuống thang, cùng với những nghiên cứu kỹ về cuộc chiến của Mỹ ở Nam Tư, Afganistan, Iraq, giới quân sự Trung Hoa cho rằng lực lượng không quân và hải quân là át chủ bài để Mỹ và các nước đồng minh tiến hành các cuộc chiến tranh “không tiếp xúc, không giới tuyến, không cân xứng”. Ba nội dung trên là đặc điểm của các cuộc chiến tranh trên thế giới trong điều kiện số hóa, trong đó sức mạnh không quân, hải quân cùng với khái niệm không gian vũ trụ và không gian mạng là rất cần thiết để giành thắng lợi nếu chiến tranh xảy ra.
Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã đẩy mạnh nỗ lực phát triển khả năng chống tiếp cận (A2/AD) cả ở trên không, trên biển nhằm ngăn chặn, đánh bại Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương trong một cuộc chiến trên không, trên biển nhằm vào bờ biển phía đông nước này. Để đạt được mục tiêu, chiến lược A2/AD của Trung Quốc bao gồm quy mô chiến lược và chiến thuật.
Ở quy mô chiến lược, Bắc Kinh triển khai cái gọi là ba cuộc chiến tranh: Pháp lí, dư luận công chúng và chiến tranh tâm lí. Mục đích là phủ nhận tính hợp pháp của các lực lượng Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương, đẩy Mỹ ra khỏi khu vực để kiểm soát tất cả các nước ven biển Đông Á. Thực hiện chiến lược này, Trung Quốc không chỉ nhằm vào Mỹ mà còn nhằm vào các đồng minh của Mỹ và các đối thủ ở châu Á-Thái Bình Dương, thuyết phục các nước ven biển không cho các lực lượng của Mỹ tác chiến trong không phận và hải phận. Họ cũng đe dọa các nước cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự nhằm ngăn chặn và phá hủy các khả năng triển khai của các lực lượng Mỹ ở khu vực.
Ở quy mô chiến thuật, chiến lược A2/AD liên quan đến các hệ thống tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cố định (CSS4) có tầm vươn tới bất kỳ mục tiêu nào trên lãnh thổ Mỹ; tên lửa DF-31A có thể tấn công di động vào các mục tiêu trên Thái Bình Dương; các loại tên lửa chống hạm, chống tàu, hệ thống tàu ngầm các loại, hệ thống tàu tên lửa các loại, kể cả vũ khí tấn công siêu thanh luôn trong trạng thái thường trực. Đặc biệt chương trình không gian mà Bắc kinh tiến hành không phải vì mục đích hòa bình mà nhằm chống lại các đối thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Không quân Mỹ tiết lộ khoảng hơn 500 vệ tinh nước này bị đe dọa từ chương trình “công nghệ phản không”, chương trình phản kích trong không gian của Trung Quốc… Có thể nói chiến lược A2/AD về quy mô chiến thuật, Trung Quốc đã thành công và thật sự là một thách thức đối với giới quân sự Mỹ.
Chiến lược mới của Mỹ dưới thời Chính quyền Barack Obama.
Trong thập niên đầu của thiên kỉ mới, Mỹ đã nhiều lần cảnh báo về chính sách kinh tế, quốc phòng của Trung Quốc. Trên thực tế Trung Quốc vẫn chưa tìm cách thay đổi trật tự thế giới sau Chiến tranh Thế giới thứ 2; không đem quân đi can thiệp ở bất cứ nơi nào; không dùng vũ lực giải quyết vấn đề Đài Loan; không giải quyết xung đột bằng vũ lực và đặc biệt là không thách thức vị thế toàn cầu của Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ luôn xem Trung Quốc là đối thủ đe dọa vị thế kinh tế, quân sự. Và Mỹ bắt đầu hành động.
Phát súng đầu tiên nổ ra vào ngày 21/10/ 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố “Chúng tôi đã trở lại châu Á”. Sau đó bà khẳng định Mỹ có “lợi ích quốc gia” tại Biển Đông và Mỹ ủng hộ Tuyên bố ứng xử về Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 tại cuộc họp các nước ASEAN với các đối tác tại Hà Nội. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì khi đó đã bỏ hội nghị để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Biển Đông. Tiếp theo vào tháng 10/ 2011 Mỹ tuyên bố thực hiện chính sách xoay trục, chuyển 60% nguồn lực quốc phòng về khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Mỹ Clinton viết, nước Mỹ bắt đầu “chuyển hướng chiến lược sang khu vực này… nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới”.
Ngoại trưởng Mỹ đã nói trước chính giới Mỹ“chúng ta không phải gửi đi một thông điệp vô cớ đến Trung Quốc mà thể hiện sự chắc chắn trong quan điểm của chúng ta”. Nếu Trung Quốc đi quá xa, nước Mỹ sẽ hành động. Đáp trả việc Trung Quốc áp đặt vùng nhận diện phòng không chồng lấn lên các nước đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản (Air Defense Identification Zone- ADIZ) ở Hoa Đông tháng 11/ 2013, Mỹ đã điều máy bay B52 bay vào ADIZ của Trung Quốc. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong chuyến công du châu Á cũng tuyên bố việc bảo vệ Senkaku là điều hiển nhiên vì nó nằm trong Hiệp ước Quốc phòng Mỹ-Nhật. Đó là những thông điệp mạnh mẽ kể từ khi Mỹ thực hiện chính sách tái cân bằng.
Sự gia tăng căng thẳng với Việt Nam và Philippine của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông khiến Mỹ và philippines ký các hiệp ước quân sự, trong đó có Căn cứ Hải quân Subic và Căn cứ Không quân Clark; đồng thời khiến Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Và chưa đầy một tuần sau Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ đường chín đoạn lưỡi bò và quyền lịch sử của Trung Quốc năm 2016, Hải quân Mỹ đã đưa chiến đấu cơ và các máy bay tác chiến điện tử tối tân và quân nhân đến Philippines. Đồng thời Mỹ cũng triển khai máy bay ném bom tàng hình có khả năng mang bom nguyên tử B-2 đến đảo Guam để thực hiện các nhiệm vụ tấn công “bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào có lệnh”.
Rõ ràng chúng ta thấy quan hệ Mỹ-Trung nóng lên từng năm cùng với sự gia tăng căng thẳng của Trung Quốc ở Hoa Đông và Biển Đông. Nếu như trong thập niên 90 của thế kỷ trước và trong những năm 2000, mâu thuẫn hai nước chủ yếu chỉ là vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng… thì từ năm 2010 trở đi hai bên đã hành động trên tất cả các mặt trận dẫn đến những mâu thuẫn ngày một căng thẳng về chính trị, quân sự, ngoại giao. Cả hai bên đều bắt đầu tập hợp lực lượng, phương tiện và động chạm đến những “lợi ích cốt lõi của nhau”. Chưa thấy có dấu hiệu nào tỏ ra có sự thỏa hiệp và hòa hoãn giữa hai bên.
Những động thái đáng chú ý của Trung Quốc.
Bắc Kinh tiếp tục gây căng thẳng ở Hoa Đông và Biển Đông. Đặc biệt là ở Biển Đông. Họ vẫn tiếp tục hoàn thiện, đưa vào sử dụng các căn cứ tôn tạo ở Biển Đông, đồng thời có dấu hiệu đang tiếp tục mở rộng thêm sau khi bác bỏ Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế. Bắc Kinh muốn tự đặt ra luật chơi. Lợi dụng nguyên tắc đồng thuận chết người của ASEAN, Trung Quốc thực hiện chính sách chia để trị. Họ dùng đòn bẩy kinh tế để “mua” Campuchia, ngăn ASEAN ra tuyên bố Biển Đông và tuyên bố về Phán quyết của Tòa Trọng tài ở Biển Đông. Kết quả ASEAN, tổ chức bảo vệ quyền lợi của 10 quốc gia Đông Nam Á không thể ra tuyên bố chống lại họ. Bằng thủ đoạn kinh tế, bằng chiến tranh tâm lý, bằng hành động quân sự, bán quân sự, lực lượng tầu đánh cá dân sự Trung Quốc muốn các quốc gia láng giềng hiểu, nếu đi ngược ý chí của Trung Quốc thì cái giá phải trả sẽ không thể chịu đựng nổi. Liệu Trung Quốc có thắng được cuộc chiến với các nước xung quanh trước khi bước vào cuộc chiến quyết định với Mỹ trong tương lai?
Cuộc chiến của Trung Quốc áp đặt luật chơi của mình với các nước đồng minh của Mỹ ở Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Nhật Bản), kể cả Bắc Triểu Tiên và thống trị các nước Đông Nam Á, độc chiếm Biển Đông có lẽ là một trong những ý tưởng và hành động ngông cuồng mới nhất trong “giấc mơ Trung Hoa vĩ đại”. Liệu Bắc Kinh có thực hiện con đường trỗi dậy an toàn ở châu Á? Chỉ biết tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải cùng với việc củng cố các yêu sách, tuyên bố chủ quyền phi lý, Trung Quốc phải đương đầu với sự phản ứng của hầu hết các quốc gia có vùng biển liên quan tới Trung Quốc từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam đến Malaysia, Indonêsia…
Trước mắt Trung Hoa chưa đối đầu với Mỹ. Nhưng chắc chắn Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ mục tiêu địa chính trị đối với vùng lãnh thổ Đài Loan, Quần đảo Senkaku, gây áp lực với các đồng minh của Mỹ hoặc từ bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp. Trung Quốc đã đạt được một số mục tiêu. Từ chỗ không có gì ở Biển Đông, Trung Quốc đã có toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa, một phần Quần đảo Trường Sa. Với việc củng cố mở rộng các đảo tôn tạo thành các căn cứ quân sự, Bắc Kinh sẽ không từ bỏ chiến lược pháo hạm. Họ sẽ chia rẽ đến cùng mục tiêu chung của các nước ASEAN nếu đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc. Không có Biển Đông, không thâu tóm được các nước Đông Nam Á, Trung Quốc rất khó khăn để có thể phát triển sức mạnh hải quân, khó có thể trở thành cường quốc biển, và do vậy họ không thể đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương, không khống chế được một trong tuyến đường vận chuyển huyết mạch của thế giới và của chính họ.
Những động thái đáng chú ý của Mỹ.
Cho đến nay Mỹ không có ý định từ bỏ vai trò lãnh đạo thế giới của mình và cũng không chấp nhận đề nghị của Tập Cận Bình xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới Mỹ-Trung. Có nghĩa là Wasinhton không chấp nhận cùng chiếu với Bắc Kinh. Chính quyền Obama đã phản ứng trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, phản ứng Bắc Kinh trong quan hệ song phương, ở các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế, ở nhóm G 7, G 20 về vấn đề Biển Đông; yêu cầu Bắc Kinh phải chấp hành Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế và quyền tự do hàng hải ở Biển Đông… Có nghĩa là Mỹ không cho phép Trung Quốc đặt ra luật chơi, mà phải tuân theo luật quốc tế hiện hành.
Đối phó với sự thay đổi về chiến lược quân sự mới, với tình trạng vừa ổn định vừa bất ổn định do Bắc Kinh gây ra, đặc biệt là đối với Chiến lược chống tiếp cận A2/AD, giới quân sự Mỹ đã xây dựng Chiến lược Tác chiến trên Không trên Biển (Air Sea Battle Operational Concept- ASB). Chiến lược Tác chiến Không-Biển có mục tiêu: “phá hủy, tiêu diệt và đánh bại mọi lực lượng quân sự thù địch của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường, thống trị bầu trời và mặt biển, phong tỏa lục địa của đối phương; phong tỏa toàn bộ khu vực Tây Thái Bình Dương”.
Nội dung chủ yếu của Chiến lược Tác chiến Không-Biển là sử dụng tất cả sức mạnh các lực lượng hải quân bao gồm tất cả các cụm tàu sân bay, chiến hạm tác chiến, tàu ngầm, không quân hải quân, lực lượng không quân và các lực lượng khác bao gồm bộ binh, lực lượng đặc nhiệm, lực lượng các nước đồng minh, tác chiến điện tử… với mục đích tấn công, tiêu diệt, bao vây và phong tỏa đất liền trên một không gian chiến trường rộng lớn, nhằm bóp nghẹt và phá hủy, tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa sức mạnh quân sự, vũ khí trang bị chiến tranh của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường trong cuộc chiến tranh phi tiếp xúc.
Về kinh tế, Mỹ đã theo đuổi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương sau 5 năm đàm phán, một hiệp định thương mại tự do kiểu mới, không có sự tham gia của Trung Quốc. Hiệp định bao gồm 12 nước trong lòng chảo Thái Bình Dương. Theo đề nghị của Tổng thống Obama các nước sẽ tiếp tục hoàn thiện và ký kết tại Hoa Kỳ vào năm 2016. Có thể nói đây là cái cốt vật chất của chiến lược xoay trục về châu Á của chính quyền Mỹ nhằm đối trọng với chính sách thương mại của Trung Quốc.
Trên lĩnh vực chính trị, Chính quyền Obama đã tập hợp lực lượng xung quanh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và Mỹ đã gặt hái được nhiều thành công. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã củng cố liên minh Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật, Mỹ-Australia và Mỹ-Philippines chặt chẽ hơn bao giờ hết. Quan hệ Mỹ-ASEAN bước đầu định hình khuôn khổ chiến lược kinh tế, chính trị, an ninh tốt đẹp trong tương lai sau Hội nghị Sunderland giữa Mỹ với mười nước. Mỹ cũng xây dựng được quan hệ tốt đẹp hơn bao giờ hết với Ấn Độ, quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ quốc phòng như chia sẻ, sử dụng các căn cứ quân sự hậu cần chung giữa hai nước.
Ngoài ra, trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á hay còn gọi là Hội nghị Shangri-la 15 ngày 14/6/ 2016 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi xây dựng một mạng lưới an ninh tập thể mới (collective security network), dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực chung. Đây là một xu thế mới mà bản chất là an ninh tập thể do Mỹ lãnh đạo nhằm đối phó với Trung Quốc. Chắc chắn điều này đã, đang và sẽ được nhiều quốc gia ủng hộ. Có nhiều dấu hiệu cho thấy một cục diện mới ở châu Á-Thái Bình Dương đang định hình. Mỹ làm được điều này là nhờ vào tham vọng bành trướng và biểu hiện sức mạnh cơ bắp của Trung Quốc, khiến nhiều nước ngả về phía Mỹ để cân bằng trước một Trung Quốc đang biến mình trở thành một Thiên triều như hàng ngàn năm lịch sử phong kiến trước đây.
Tựu chung lại, chính quyền hai nước Mỹ-Trung vẫn đang thực hiện những bước đi nằm trong tính toán chiến lược của họ. Hai năm, năm 2015-2016, cả hai nước đã đẩy xung đột lên đến cao độ. Trước mắt, trận tuyến ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là Hoa Đông và Biển Đông (theo người viết Biển Đông là mặt trận chính). Trung Quốc đã huy động sức mạnh tổng hợp quốc gia, đặc biệt là sức mạnh quân sự cho hướng đông và đông nam. Mỹ cũng bước vào giai đoan hoàn thành việc cơ cấu lại lực lượng quân sự, chuyển 60 sức mạnh quân sự sang châu Á-Thái Bình Dương, tập hợp và củng lực lượng đồng minh cùng với các đối tác nhằm đối phó với Trung Quốc. Về mặt quân sự có thể nói Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng đang diễn ra một cuộc so găng quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cả hai phía đều thúc đẩy xung đột, hay nói đúng hơn là tiến hành leo thang một cách có chủ ý. Chưa đến mức chiến tranh nhưng có thể nói là hoàn toàn không bình thường. Tình trạng này sẽ kéo dài trong bao nhiêu lâu còn tùy thuộc vào việc quản lý leo thang xung đột của cả hai bên. Nhưng chắc chắn cả hai bên đều không từ bỏ mục tiêu của mình.
Read More

Quan hệ Trung Mỹ sẽ đi về đâu

Leave a Comment

 

Bài này tôi viết từ tám năm trước. Cách đây 4 năm khi Donald Trump trúng cử tổng thống Hoa Kỳ tôi đã sửa lại và bổ sung đăng trên blog cá nhân. Năm nay khi Joe Biden đắc cử tôi tiếp tục viết lại. Bài viết khá dài, dựa trên nhiều nguồn tài liệu. Tôi chia làm 3 phần, xin được chia sẻ cùng bạn đọc.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại, quan hệ Mỹ-Trung có tầm quan trọng đặc biệt. Quan hệ giữa hai nước đã tác động và ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia khu vực châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Trải qua gần 70 năm, từ một nước đông dân nhất thế giới, một nước đói nghèo thuộc thế giới thứ 3, giờ đây Trung Quốc nổi lên trở thành một cường quốc lớn nhất về kinh tế sau Mỹ. Có thể nói sau cuộc Chiến tranh Lạnh, khi siêu cường Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc hiện tại đang đe dọa vị thế siêu cường của Mỹ. Mâu thuẫn Mỹ-Trung không chỉ là mâu thuẫn về ý thức hệ mà còn là mâu thuẫn nằm trong hệ thống quan hệ quốc tế. Liệu lãnh đạo hai nước có thể điều hòa những mâu thuẫn này bằng biện pháp hòa bình? Liệu Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ có chịu chia sẻ vị thế siêu cường và quyền lợi với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa? Liệu một cuộc chiến tranh nóng hay một phiên bản chiến tranh Lạnh 2.0 giữa một quốc gia đã và đang là “bá chủ” và một quốc gia đầy tham vọng muốn thay thế vị trí số 1 có thể xảy ra?
Theo một số nhà nghiên cứu, hai đối thủ Mỹ-Trung đã bắt đầu cuộc chiến cạnh tranh từ mười năm trước, năm 2010. Theo cuốn Hồi ký của Barack Obama (Tổng thống thứ 44 của Hoa Kỳ từ tháng 1/2009 đến tháng 1/2017), nếu không xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới vào năm 2007-2008, cuộc chiến có lẽ xảy ra sớm hơn vài năm. Để trả lời cho những câu hỏi dự đoán trên, chúng ta cùng tìm hiểu mối quan hệ Mỹ -Trung từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời đến nay.
Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 1949 đến năm 2010:
Quan hệ Mỹ-Trung trong thời gia này đã trải qua nhiều thăng trầm. Từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1949 đến năm 1972, hơn hai mươi năm Mỹ-Trung là kẻ thù không đội trời chung. Quan hệ hai nước trong bối cảnh cuộc chiến tranh Lạnh luôn ở bên bờ vực chiến tranh, thậm chí Mỹ đã tính đến sử dụng lực lượng hạt nhân chiến thuật sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950-1953). Nhưng bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ trước, do gặp nhiều khó khăn, giới cầm quyền hai nước đã đến với nhau và cả hai đều điều chỉnh chính sách của mình.
Về phía Mỹ, họ phải hy sinh Đài Loan, nhượng bộ Trung Quốc ngồi vào ghế uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhằm mục đích giải quyết cuộc chiến tranh ở Việt Nam và sử dụng ảnh hưởng của Mỹ với Trung Quốc như là đòn bẩy chống lại Liên Xô. Đồng thời Mỹ cũng mong muốn có được các mối quan hệ kinh tế có lợi đối với Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, họ chuyển từ chính sách mang nặng ý thức hệ sang chính sách thực dụng “mèo trắng cũng như mèo đen”, sát cánh với Mỹ chống Liên Xô, lợi dụng mâu thuẫn giữa hai siêu cường để tìm kiếm lợi ích quốc gia. Nhân tố Mỹ trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc chuyển dần từ kẻ thù trực tiếp sang một dạng đồng minh đôi bên cùng có lợi. Điều quan trọng là cải thiện quan hệ với Mỹ sẽ giúp Trung Quốc đặt nền móng và phát triển quan hệ với thế giới phương Tây. Từ chỗ bị cô lập, Trung Quốc có cơ hội vươn rộng ra cộng đồng quốc tế. Chính điều này đặt nền móng cho công cuộc cải cách kinh tế thần kỳ mà Đặng Tiểu Bình khởi xướng ở giai đoạn sau. Mâu thuẫn lớn nhất giữa hai nước về ý thức hệ tạm thời được gác lại.
Nhìn vào mối quan hệ Mỹ-Trung trong thời kỳ này, chúng ta thấy Mỹ là bên chủ động. Mỹ chính là đột phá khẩu cho chiến lược hướng ra bên ngoài của Trung Quốc. Với tư cách là một thị trường, Mỹ trở thành một đối tác cần thiết có vai trò hết sức quan trọng cho sự phát triển về mọi mặt, cụ thể là Bốn hiện đại hóa (Four Modernization) trong các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, quốc phòng và khoa học công nghệ nhằm biến Trung Quốc thành một cường quốc hiện đại.
Từ những năm 1980 trở đi, quan hệ Mỹ-Trung vẫn là mối quan hệ lợi dụng lẫn nhau, họ tập hợp lực lượng để tạo thế so sánh trong quan hệ với Liên Xô. Khi quan hệ Mỹ-Xô đi vào thế hòa hoãn cuối những năm 80, đặc biệt là vào năm 1989, sau sự kiện Thiên An Môn, Bắc kinh dùng xe tăng nghiền chết sinh viên biểu tình, vị trí của Trung Quốc trong chiến lược của Mỹ bị hạ thấp. Và sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ ra sức thực hiện chiến lược diễn biến hòa bình. Trung Quốc lẳng lặng phát triển kinh tế, ổn định nội bộ. Họ khôn ngoan không thành lập mặt trận chống Mỹ như trong giai đoạn đầu. Mặc dù có nhiều sóng gió trong quan hệ hai nước, nhưng Trung Quốc đã thành công phát triển kinh tế và thực hiện chính sách “giấu mình chờ thời” của chiến lược gia Đặng Tiểu Bình (trong khoảng thời gian này, được sự đồng ý và làm ngơ của Mỹ, Trung Quốc đã phát động hai cuộc chiến tranh với Việt Nam: Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc năm 1979 và cuộc chiến tranh xâm chiếm 7 đảo Trường Sa năm 1988).
Sự kiện 11 tháng Chín năm 2001, sự kiện khủng bố đánh vào tòa tháp đôi, biểu tượng kinh tế của nước Mỹ, giết hại gần ba nghìn người là cơ hội “trời cho” đối với Trung Quốc. Cả đất nước Trung Quốc ăn mừng sự kiện này. Mỹ lao vào cuộc chiến chống khủng bố và sa lầy trong hai cuộc chiến ở Afganistan và Iraq, tiêu tốn hàng ngàn tỉ đô la cùng với rất nhiều nguồn lực con người trong mớ bùng nhùng Trung Đông. Lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố, tận dụng xu thế toàn cầu hóa với vốn, khoa học và công nghệ của Mỹ và phương Tây, Trung Quốc đã biến mình thành công xưởng của thế giới, có nền kinh tế cạnh tranh nhất thế giới và vươn lên trở thành một cường quốc ở châu Á, đồng thời bước lên sân khấu toàn cầu. Đáng chú ý hơn là dựa vào tiềm lực kinh tế ngày một lớn của mình, Trung Quốc không ngừng đầu tư cho quốc phòng và hiện đại hóa quân đội. Mức độ chi tiêu cho quốc phòng liên tục tăng trong nhiều năm, chỉ đứng sau Mỹ.
Bước sang thiên kỷ mới sau mười năm, mặc dầu bắt đầu bộc lộ nhiều mâu thuẫn, quan hệ Mỹ-Trung vẫn phụ thuộc vào nhau về chính trị, kinh tế, ngoại giao. Họ là đối thủ của nhau nhưng đồng thời cũng là đối tác của nhau. Điều này khác hẳn với quan hệ Mỹ-Xô trong thời gian chiến tranh lạnh. Hai siêu cường kéo theo hai phe đối lập nhau trên tất cả các mặt trận chính trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự.
Quan hệ Mỹ-Trung vào năm 2010 phức tạp hơn nhiều. Mỹ không còn là một siêu cường trong thời hoàng kim. Trung Quốc cũng không chỉ đơn thuần là một cường quốc “Cộng sản độc đoán”. Chính sách của Trung Quốc cũng không chỉ là mèo đen hay là mèo trắng. Họ đang tối đa tầm ảnh hưởng ở khu vực Tây Thái Bình Dương; xây dựng các mối quan hệ kinh tế với các nước, phát huy lợi thế với các nước trong khu vực xung quanh, đồng thời tìm kiếm vai trò lớn hơn tại các thể chế đa phương quốc tế; tìm mọi cách thống nhất hai bờ eo biển Đài Loan và khẳng định yêu sách chủ quyền một Trung Quốc với các nước còn quan hệ chính trị với Đài Loan; tăng cường sức mạnh quốc phòng và phạm vi hoạt động quân sự, đặc biệt là xây dựng phát triển sức mạnh biển; duy trì quan hệ tích cực và có lợi với Mỹ, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cạnh tranh đối đầu chiến lược Mỹ-Trung ở châu Á-Thái Bình Dương.
Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc là hoàn thành việc xây dựng một xã hội “khá giả” trên mọi lĩnh vực vào năm 2021 khi Đảng Cộng sản Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày thành lập; xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa hiện đại, thịnh vượng, vững mạnh, dân chủ, nâng cao đời sống văn hóa và hài hòa vào năm 2049 khi nước Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa đánh dấu chặng đường 100 năm ngày thành lập. Nhiệm vụ nòng cốt để thực hiện mục tiêu họ đề ra là gia tăng sức mạnh kinh tế và sức mạnh quân sự để bảo vệ đất nước, mở rộng quyền lực ra phía đông Thái Bình Dương (nên họ càng thể hiện hành động cơ bắp ở Biển Đông), củng cố sức mạnh tiến vào Ấn Độ Dương; thực hiện Sáng kiến Vành đai Con đường, Vành đai kinh tế “Con đường tơ lụa” trên đất liền và Đường hàng hải “con đường tơ lụa mới” trên biển lấy Trung Quốc là trung tâm.
Nhìn lại quan hệ Mỹ-Trung từ 1949 đến 2010, các nhà quan sát quốc tế nhận thấy mối quan hệ này chứa đựng đầy đủ hai mặt hợp tác và cạnh tranh. Trong đó cạnh tranh là đặc điểm xuyên suốt qua mọi thời kì. Trong sự hợp tác lợi dụng lẫn nhau, cả hai bên đều thiếu sự tin tưởng. Trung Quốc luôn cảnh giác với chiến lược diễn biến hòa bình, can thiệp nội bộ, thay đổi chế độ của Mỹ. Và cũng vì sự khác biệt về hệ thống chính trị, Mỹ luôn tấn công Trung Quốc về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do tư tưởng, vấn đề dân tộc, nạn ăn cắp bản quyền, gián điệp mạng, thao túng thị trường… còn Trung Quốc thì không hài lòng với trật tự thế giới do Mỹ và phương Tây lãnh đạo. Trung Quốc chắc chắn sẽ không từ bỏ cạnh tranh với Mỹ và Mỹ cũng là đối thủ mà Trung Quốc muốn vượt qua
Read More

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.