Hội làng Triều Khúc

Leave a Comment

 Hội làng Triều Khúc

Triều Khúc là một trong 10 làng cổ nhất của Hà Nội, quê hương của Di chỉ Gò Cây Táo thuộc lớp Văn hóa Phùng Nguyên cách đây khoảng trên dưới 4000 năm. Nơi đây còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hóa vật thể, phi vật thể, nhiều nét văn hóa tâm linh và phong tục tập quán truyền thống đẹp đẽ. Thể hiện rõ nhất là ở “Nét cũ hội hè đình đám”.
Hội làng Triều Khúc xa gần nhiều người biết đến. Đầu Xuân năm 2020, chính quyền xã và người dân đã long trọng tổ chức lễ đón nhận bằng Di sản Văn hóa phi vật thể Quốc gia Lễ hội truyền thống. Lễ hội làng Triều khúc diễn ra trong bốn ngày, từ ngày mồng 9 đến ngày 12 tháng Giêng Âm lịch, chính hội ngày mồng 10.
Cũng như bao lễ hội làng quê Việt Nam, lễ hội Triều Khúc gắn liền với tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, một tín ngưỡng kết hợp thờ người anh hùng với thần linh. Thực tế trước Tết Lớn hàng năm, người dân làng Triều Khúc, Tân Triều, Thanh Trì đã chuẩn bị tổ chức lễ hội truyền thống tưởng nhớ đến vị anh hùng dân tộc Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng, người đã nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường thời Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam. Và trong tâm thức của dân làng Triều Khúc, người anh hùng làng Đường Lâm chính là người đã mang lại cuộc sống ấm no, bình yên cho dân làng…
Bắt đầu lễ hội, ngày mồng 9 là những nghi lễ quan trọng không thể thiếu như như lễ dâng hương, lễ rước sắc, lễ nhập tịch… Nhiều hoạt động vui chơi trong những ngày lễ hội như đá cầu, cờ người, đánh vật, chọi gà, bịt mắt bắt dê, bịt mắt đánh trống, đập niêu và sinh hoạt văn hóa dân gian đặc sắc như múa rồng, múa lân, múa sinh tiền, múa bồng, múa chạy cờ. Với tôi, những môn thể thao được đưa vào lễ hội như bóng đá, bóng bàn và hội sinh vật cảnh trưng bày cây cảnh, chim cảnh luôn luôn thu hút thời gian của tôi trong những ngày Tết. Cuối cùng là Lễ Tế giã ngày 12, tức là lễ tiễn biệt, rước Thánh hồi cung, kết thúc lễ hội. Để rồi người dân trong làng lại bắt đầu bận rộn một năm làm ăn mới.
Trong không gian lễ hội có rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc được bảo tồn. Tiêu biểu là nghi thức tế lễ cổ truyền (đội tế lễ của Triều khúc luôn đạt giải nhất trong các cuộc thi do ngành văn hóa thành phố tổ chức). Tiếp theo là điệu múa trống bồng, điệu múa cổ do trai làng đóng giả làm con gái, má phấn, môi son, đầu chít khăn mỏ quạ, váy nhiễu màu đen với những dải màu ngũ sắc, vừa múa nhún nhảy, vừa vỗ trống bồng đeo trước bụng một cách nhí nhảnh, ẻo lả,duyên dáng. Điệu múa Bồng diễn ra xuyên suốt những ngày lễ hội, từ đại đình, giữa các tuần tế, qua lễ rước cho tới tận đình thờ Sắc, rồi quay trở lại đại đình.
Điệu múa chỉ do những cặp nam thực hiện, đi trước đội múa sinh tiền của các thiếu nữ xinh đẹp. Các động tác múa đúng như tên gọi dân gian “con đĩ đánh bồng”, vừa khoáng đạt, uyển chuyển, vừa duyên dáng, ẻo lả, lẳng lơ. Có cái gì đó có vẻ như “đĩ thõa”, cuốn hút toát ra từ trong ánh mắt lúng liếng, vẻ mặt mời gọi. Người múa không phải đánh bồng mà mơn man bồng, hòa cùng thân hình uốn éo, nghiêng ngả. Đỉnh cao của động tác gợi dục là động tác áp lưng nhau, đôi cánh tay giang ra như ôm ấp. Từng cặp múa vận động suốt trong quá trình hành lễ, khi di chuyển thì ngược chiều kim đồng hồ, theo hai hình vuông và tròn, như nương tựa vào nhau, xoắn xuýt và hòa nhập với nhau theo nhịp chân nhún nhảy, đong đưa.
Đây là điệu múa dân gian phồn thực phổ biến trong các lễ hội Xuân xưa kia ở đồng bằng Bắc Bộ. Không biết nó có nguồn gốc từ đâu? Từ phương bắc đi xuống, từ phương nam đi lên hay nội sinh từ mong ước trai gái hòa hợp, vạn vật sinh sôi nảy nở, ước mong ngàn đời của cư dân nông nghiệp. Chính vì thế mà điệu múa này, cùng với điệu múa chạy cờ (điệu múa diễn tả việc thao diễn luyện tập binh mã, chuẩn bị đánh thành Tống Bình trước khi Đức Phùng Hưng lên ngôi vua) của làng Triều Khúc được biểu diễn trong dịp Lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long của thành phố và được công nhận là một phần di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia cuối năm 2019.
Bên cạnh múa Trống Bồng còn có một điệu múa khác cũng rất nổi tiếng và thường xuyên được dùng trong lễ hội đó là múa Rồng. Múa Rồng không chỉ để cầu mong mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an mà còn bao hàm cả nội dung giáo dục tinh thần thượng võ, cầu mong phồn vinh, thịnh vượng. Múa Rồng hoành tráng với nhiều động tác, tạo hình biến hóa sinh động như rồng chào, rồng phục, rồng chầu, rồng bay cao, hạ thấp, rồng cuộn, rồng lượn, rồng uốn khúc, rồng đuổi ngọc, ngậm ngọc... Cùng với âm thanh tưng bừng, tiết tấu nhịp nhàng của dàn bát âm; âm thanh vang dội của dàn trống cái, cồng; âm thanh lanh lảnh của thanh la, chũm chọe và âm thanh âm trầm của tù và, điệu múa rồng hấp dẫn đến say đắm, cuốn hút người xem đến kỳ lạ. Bao đời qua, múa Rồng không hề bị mai một cho dù thời gian vật đổi sao dời.
Một nét đặc sắc nữa trong lễ hội là hàng trăm người trong quá trình rước Thánh, người hành lễ đều đi ngang, mặt quay vào nhau để không quay lưng vào Thánh. Lúc múa thì các thành viên phải hành tiến giật lùi. Đi theo sau kiệu thánh là dân làng, bắt đầu là các cụ cửu, cụ bát vận quần áo màu đỏ, mũ ni che tai; rồi đến các cụ thất áo thụng xanh; sau mới đến trung niên, khách thập phương, nam thanh nữ tú áo quần truyền thống trong các sắc mầu… Đoàn rước kéo dài từ đại đình đến đình thờ sắc trong hương án cờ hoa rực rỡ, cùng với tàn vàng lọng tía tầng tầng lớp lớp bên trên rất đặc trưng của ngày hội. Nhưng đó mới chỉ là bề nổi trong những ngày lễ hội…
Ngay từ đêm 30 tết, nhà nào nhà nấy ở Triều Khúc thường làm lễ cúng Thành hoàng làng lúc giao thừa ở Đình Thờ Sắc và Đại Đình. Cũng có những gia đình làm lễ cúng ở chùa, ở đền Tam Thánh, đền thờ Tổ Nghề, lăng Thờ Mẫu (Lê triều Quận Chúa) hoặc ở nhà thờ dòng họ (13 dòng họ lớn ở Triều Khúc đều có nhà thờ tổ) tùy theo niềm tin vào tiền nhân hay các lực lượng siêu nhiên phù trợ sức khỏe, hạnh phúc, sự may mắn cho gia đình trong năm mới. Những tín ngưỡng như thờ Thành hoàng, thờ Tổ Nghề, thờ tổ họ, thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần đan xen tạo nên đời sống tâm linh đa dạng, ảnh hưởng và chi phối phong tục, tập quán cũng như lối sống của người Triều Khúc. Việc lễ bái này chủ yếu hầu như diễn ra trong những ngày tết, sau Tết và gắn liền với lễ hội.
Ngay cả việc người ta lên bô (50 tuổi), lên thất (70 tuổi), lên bát (80 tuổi), lên cửu (90 tuổi) người Triều Khúc cũng làm lễ “trình giầu” trước cửa đình thờ Thánh Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (cũng là Thành hoàng làng) trước Tết. Trong những ngày diễn ra lễ hội, vào ngày mồng 10, tất cả các cụ lên cửu, lên bát trong làng cùng con cháu tập trung sửa lễ Tam sinh đến đình làng để tạ ơn Thánh đã phù hộ cuộc sống trường thọ cho mình. Cũng như vậy vào ngày 11 là những người lên thất. Các cụ cùng con cháu náo nhiệt hàng trăm người lễ bái ở cửa Thánh xong lại đến lễ ở đền Tam Thánh, tổ nghề… Người lên cửu, lên bát, lên thất “được dư huệ lộc Thánh” sau đó mới cùng con cháu về nhà cùng thân thích nội ngoại, bạn bè linh đình liên hoan mừng thọ. Nhà giầu hay nhà nghèo cũng có vài ba, bốn chục mâm cỗ khao. Như vậy những sự kiện vui mừng, quan trọng trong đời người của người dân Triều Khúc đều gắn với việc thờ Thánh và lễ hội. Ngày hội của làng cũng là ngày hội của mỗi gia đình và dòng họ. Một không khí vui tươi, phấn khởi tràn ngập trong mỗi gia đình đến ngoài làng từ trước Tết cho đến hết rằm tháng Giêng. Cũng chính vì vậy, hội làng Triều Khúc không chỉ là hội làng có giá trị vật thể truyền thống mà còn mang đậm giá trị phi vật thể.
Ngày nay, hội làng Triều Khúc vẫn giữ được nét nguyên sơ, mang đậm cốt cách, nét đẹp tâm linh của lễ hội truyền thống giữa Thủ đô ngàn năm văn hiến. Dù đã đô thị hóa nhưng làng Triều Khúc vẫn có khung cảnh cổ kính đặc trưng của ngôi làng Bắc Bộ. Ở giữa làng là khu vực trung tâm với chùa Hương Vân, đền Tam Thánh, đền thờ Tổ Nghề (xin xem bài Tục thờ tổ làng nghề Triều Khúc và bài Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần trong trang Facebook này) và Đình thờ Sắc uy nghiêm, rêu phong, đặc trưng của đình chùa làng Việt. Tất cả còn giữ nguyên vẹn từ khi xây dựng. Ngay trước cổng chùa là một hồ nước rộng, trong xanh cùng nhà thủy tạ nổi khiến phong cảnh làng càng thêm hữu tình.
Một dặc trưng khác của làng là có hai ngôi đình cổ, với kiến trúc bề thế, trong đó Đình thờ Sắc, thờ các đạo sắc phong thời Lê Cảnh Hưng (1783) đến thời Khải Định (1924) ban phong mỹ tự cho vị thành Hoàng của làng và Đại đình thờ Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng. Người dân Triều Khúc rất tự hào, gìn giữ các ngôi đình vì tương truyền vị trí đại đình ngày nay vào năm 791 là nơi Phùng Hưng đã chọn làm đại bản doanh trên đường tiến công đánh thành Tống Bình chống lại quân đô hộ nhà Đường Cao Chính Bình.
Lễ hội làng Triều Khúc đậm chất văn hóa Việt, thu hút đông đảo du khách, các nhà nghiên cứu văn hóa, sử học, kể cả của nước ngoài. Có những cá nhân, nhóm nghiên cứu của một trường đại học Nhật Bản đã ăn ở ba năm liên tục tại làng Triều Khúc để tìm hiểu, nghiên cứu. Vị giáo sư người Nhật trong buổi tiệc mừng bố anh bạn tôi lên bát (ông giáo sư người Nhật tặng tôi một đĩa DVD ghi lại hình ảnh mấy năm liền dự hội, giỗ các dòng họ, đám ma, đám cưới của người dân trong làng) đã nói “một giá trị của lễ hội truyền thống của làng Triều Khúc là ở tính tự quản, tinh thần dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa”. Tôi trao đổi thêm với ông, Lễ hội truyền thống của Triều Khúc, cũng như ở các địa phương khác ở Việt Nam là do dân và quay trở lại phục vụ nhu cầu đời sống văn hóa, tín ngưỡng của dân. Không có kinh phí của chính quyền, vậy mà nó vẫn tồn tại từ xưa đến nay. Lễ hội không chỉ là dịp bày tỏ đạo lý uống nước nhớ nguồn, nó còn là sợi dây cố kết tình cảm gia đình, dòng họ, làng xóm… Nhưng ba năm do COVID-19, theo quy định chung của chính quyền, làng không mở lễ hội. Trong những ngày đầu Xuân này, tôi cảm thấy thiếu đi một cái gì đó rất khó nói, mất đi một điều gì đó cũng rất khó nói. Và chợt nhận ra tại sao các làng xã Việt Nam xưa kia lại coi trọng lễ hội đến vậy.
Tien Nguyen, Mạnh Đẩu Nguyễn và 248 người khác
98 bình luận
20 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.