Đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân thôn Bình Đà, Thanh Oai, Hà Nội
Trong những năm gần đây, tôi có dịp ba lần hành hương về đất tổ. Trước khi thắp hương tri ân công đức các Vua Hùng, cũng đến thăm Đền Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và Đền thờ Tổ Mẫu Âu Cơ. Thế nhưng cho đến tận ngày hôm nay, khi làm việc với Ban giám hiệu Trường TH Bình Minh, cách nhà tôi khoảng 6km, tôi mới biết ngôi đền Nội thôn Bình Đà, Bình Minh, Thanh Oai, Hà Nội. Ngôi đền này mới là ngôi đền gốc thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân.
Nói chuyện với ông Từ đền Nội (ngoài đền nội là đền ngoại, đền thờ Linh Lang Đại Vương) tôi được biết từ xưa đến nay, vào dịp lễ hội, đều có đoàn thủ từ của đền Hùng, Phú Thọ về dâng hương Quốc Tổ Lạc Long Quân. Đoàn thủ từ nơi đất tổ xin rước chân nhang hương án đền Nội về thờ, với ý nghĩa cung kính đón Quốc Tổ về dự hội Đền Hùng vào ngày 10/3 âm lịch.
Vây mà cho đến bây giờ tôi mới được biết Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân tọa lạc tại thôn Bình Đà. Có thể nói Đền/Đình là một trong những địa điểm lịch sử và văn hóa quan trọng không chỉ riêng của Bình đà mà còn là địa điểm lịch sử và văn hoá dân tộc Việt. Đền được xây dựng để tưởng nhớ và thờ cúng Lạc Long Quân, vị vua hùng cường và là một trong những người cha của dân tộc Việt.
Đền/Đình Nội Bình Đà gắn liền với truyền thuyết mẹ Âu Cơ sinh 100 trứng, nở ra 100 người con, 50 người theo mẹ lên núi, 50 người xuống biển cùng cha. Sau khi chia tay, Lạc Long Quân đến đất Bảo Đà, nay là Bình Đà, cách biển không xa (thời đó biển tiến) , truyền cho các con dừng chân dựng trại. Thấy thế đất lục long chiêu hội, bốn phương màu mỡ, sông suối lượn quanh, nhiều thềm đất cao mang dáng rồng chầu, hổ phục, Lạc Long Quân bèn chọn nơi đây để xây dựng cơ nghiệp: Đánh đuổi thú dữ, làm nhà, dạy dân cày cấy, trồng dâu, nuôi tằm, lấn biển, khai khẩn đất hoang, mở mang bờ cõi.
Khi Quốc Tổ về trời, ngài được các vua Hùng và dân làng an táng tại gò Tam Thai (Ba Gò) thuộc đất Bảo Đà. Để tri ân công đức của Quốc Tổ Lạc Long Quân, dân làng Bảo Đà lập ngôi đền Nội cùng bức đại tự Tổ Dân Bách Việt (Vi Bách Việt Tổ) để thờ cúng.
Thăm đình Nội, tôi được biết về bức phù điêu, tục truyền bức phù điêu Quốc Tổ Lạc Long Quân của đền Nội có nguồn gốc từ thời nhà Đinh, khi Đinh Tiên Hoàng lên làm vua đã cho xây đền Thượng tại Phong Châu để thờ các vua Hùng với mỹ tự "Hùng Vương sơn nguyên Thánh Tổ”. Người cũng đã giao cho Hoàng hậu Đan Gia và Đinh Quốc công Nguyễn Bặc đặc trách cùng với Bộ Lễ tuyển các thợ giỏi để chế tác bức phù điêu này. Năm 2015 Bức phù điêu này được Chính phủ công nhận là bảo vật văn hóa đặc biệt của Quốc gia.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 1032, Vua Lý Thái Tông tổ chức lễ hội Tịch Điền đầu tiên tại cánh đồng làng Bình Đà: “Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, vua ngự đến Tín Hương ở Đỗ Động Giang cày ruộng tịch điền”. Vua cho dựng Đài Quan Canh để vua trực tiếp làm lễ tế Thần Nông. Sau đó, vua trực tiếp xuống ruộng cày ba đường. Nối tiếp sau vua, các hoàng thân quốc thích cũng cày mỗi người 16 đường.
Tháng 10/1959 Bình Đà còn vinh dự đón Bác Hồ về thăm. Điều đặc biệt là Bác đã xuống tận ruộng thăm hỏi nông dân thu hoạch lúa mùa tại chính thửa ruộng được cho là nơi năm xưa vua Lý Thái Tông cày Tịch Điền. Bác xem kỹ khoảng cách giữa các khóm lúa và đếm số bông trong khóm lúa, số hạt ở một bông lúa và khen bà con thâm canh tốt…
Suốt 600 năm qua tại đền Nội, có 18 vị vua của các triều đại đích thân về Bình Đà dâng lễ Quốc Tổ. Các triều đại đã suy tôn Lạc Long Quân là “Khai Quốc Thần”: “Lý triều hiến sắc/ Thành tổ tiên vương/ Nhất bảo bách noãn/ Sinh hạ bách thần/ Hộ quốc cứu dân/ Vạn xuân an lạc”. Năm 2010, nhân dịp Kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, đền Nội được Nhà nước và thành phố Hà Nội đầu tư tu bổ, tôn tạo khang trang, bề thế trong khuôn viên 10.000 m2, mang đậm bản sắc phương Đông.
Tôi được các cụ trong ban quản lý đền cho biết hội Bình Đà xưa thường bắt đầu từ ngày 24/2 Âm lịch và kết thúc vào ngày 7/3 Âm lịch. Có thể nói đây là một lễ hội rất dài ngày (độc giả nào muốn biết trong những ngày hội dân làng tiến hành những hoạt động gì có thể xem trong Từ điển Bách khoa mở Wikipedia hoặc Hương ước Bình Đà). Năm nay UBND huyện Thanh Oai đứng ra tổ chức lễ hội từ ngày 1/3 Âm Lịch đến ngày 7/3 Âm lịch.
Việc tổ chức tế lễ thì cũng tương tự như các lễ hội lớn. Nhưng tục làm bánh Thánh, rước và thả bánh là một nghi thức khá đặc biệt. Từ xa xưa công việc làm bánh Thánh phục vụ lễ hội chỉ được giao cho dòng họ Nguyễn Văn. Đây là dòng họ có chức sắc và được sự tín nhiệm của dân làng từ bao đời trước. Công việc làm bánh Thánh rất khắt khe và nghiêm ngặt. Công việc này chỉ được giao duy nhất cho một người trong họ. Từ bao đời nay, công việc chỉ được truyền tiếp cho người con trưởng trong gia đình dòng họ và đặc biệt không được truyền lại cho người ngoài. Trước và trong thời gian lễ hội người làm bánh phải giữ mình thật thanh tịnh.
Điều độc đáo là vật liệu dùng để đun bánh không phải là củi từ những cây gỗ khô hay bất cứ vật liệu nào mà phải là cây tre chết dóc, tức cây tre già chết khô trong bụi. Đây là một công việc hết sức khó khăn vì những cây tre già thường nằm giữa những bụi tre to mà không phải bụi tre nào cũng có. Những vị thuốc làm nhân bánh không ai được phép biết trong đó gồm những gì, nhưng đó là những vị thuốc Bắc bí truyền. Thả xuống giếng bao nhiêu cặp bánh thì ngay cả vợ con người làm bánh cũng không ai được biết. Tôi cố gặng hỏi một ông đã từng là chủ tế, ông từ chối: “Thiên cơ bất khả lộ ông à”.
Cá nhân tôi cho rằng, tục thả bánh Thánh này có liên quan đến tín ngưỡng phồn thực của cư dân nông nghiệp. Bánh dày tròn tượng trưng cho Dương. Thả xuống giếng Ngọc tượng trưng cho Âm. Bánh chìm xuống là sự biểu trưng cho Thiên và Địa giao hòa. Các lễ vật trong lễ hội thường tương ứng với 100 người con của Quốc tổ Lạc Long Quân và Quốc mẫu Âu Cơ.
Ngày mùng 6 tháng 3 âm lịch là ngày chính hội, giờ khắc thiêng điểm. Sau một hồi trống chiêng, bánh Thánh được rước ra giếng Ngọc. Bánh được để trong đài đậy kín và có tấm vải đỏ phủ kín đài bánh. Kiệu rước bánh có lọng, tàn, quạt che hầu hai bên. Nhạc trống chiêng cùng phường bát âm reo vui đưa đám rước bánh tới bên giếng. Tại giếng Ngọc đã quây sẵn một khung để thả bánh Thánh. Mọi việc đều diễn ra trong mật truyền. Không ai được trực tiếp nhìn thấy chiếc bánh có hình thù, màu sắc như thế nào. Họ chỉ cảm nhận qua lớp vải bọc chiếc bánh. Khi bánh Thánh được thả xuống giếng, ông chủ tế đều phải đọc một câu thần chú đặc biệt, để bánh chìm xuống ra được tới thủy cung. Bánh Thánh thả tại giếng Ngọc mang rất nhiều ý nghĩa. Thả bánh xuống giếng như là vật lễ thiêng tế 100 người con của Quốc Tổ Lạc Long Quân và Âu Cơ theo cha mẹ khai phá những miền đất mới…
Lễ hội cổ truyền Bình Đà được tổ chức hàng năm thể hiện niềm tin, nhớ về nguồn cội dân tộc. Tất cả người dân Bình Đà và khách hành hương đều tin Đức Quốc tổ Lạc Long Quân và Đức Thành hoàng Linh Lang Đại Vương sẽ phù hộ cho dân làng, cầu cho con người bình yên, mạnh khỏe, sống lâu, lúa tốt, của nhiều…
Đến thăm Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân và dự lễ hội, tôi được trải nghiệm không chỉ vẻ đẹp kiến trúc của đền đá cổ kính mà còn cảm nhận được sự thiêng liêng và tôn nghiêm của nơi này. Tôi được chiêm ngưỡng bức tượng Lạc Long Quân đang ngồi trên ngai vàng, với vẻ mặt trang nghiêm và truyền cảm. Tôi được thắp hương và cầu nguyện cho quốc thái dân an, gia đình yên bình… Trong không gian yên tĩnh và tâm linh, tôi cảm thấy một trường gì đó thật thánh thiện, thiêng liêng. Tôi cảm nhận được cả một chiều dài lịch lịch sử và tín ngưỡng hàng ngàn năm của dân tộc như được trải ra… Lễ hội Bình Đà đúng là một điểm đến lý tưởng để tìm hiểu về cội nguồn lịch sử và văn hóa của dân tộc.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét