Tôi
ở trên đất Mỹ đã gần 3 tháng nhưng vẫn chưa thu xếp đi Cali thăm ông chú được.
Chuyện đó cứ canh cánh bên lòng tôi suốt những ngày qua. Ông là con nuôi bà nội
tôi vào khoảng đầu những năm 1940. Khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3
năm 1945, gia đình ông về nhà bà chị ruột bà nội tôi ở Triều khúc để lánh nạn.
Tiếp đến vào cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, người dân Hà nội rời khỏi nội
đô, gia đình ông lại tản cư về nhà tôi. Rồi đến những năm kháng chiến chống Mỹ,
hai lần gia đình ông cùng gia đình tôi cùng đi sơ tán ở làng Thạch Am, Thanh
Oai, Hà Đông. Vì thế, quan hệ giữa hai gia đình chúng tôi càng thêm gần gũi, gắn
bó.
Sau
cuộc Chiến tranh biên giới ở phía bắc, hai gia đình chúng tôi hoàn toàn bặt tin
nhau. Bà tôi chỉ nhận được một lời nhắn từ người hàng xóm gia đình ông chú, nên
thỉnh thoảng lại trách “Nó đi đâu mà không nói lấy một lời”. Mãi đến năm 2005,
ông chú tôi mới từ Mỹ đột ngột trở về. Phố xá và làng xóm xưa kia nay đã thay đổi
nhiều. Ông phải hỏi thăm mãi mới tìm đến được nhà ở của gia đình tôi. Tay bắt mặt
mừng, chưa kịp uống xong chén nước, ông đòi tôi đưa ra thăm mộ bà nội. Đường ra
cánh đồng lầy lội. Ông phải tháo cả tất cả giầy để đi theo tôi. Tới mộ, cắm ba
nén hương, ông quỳ sụp, giập đầu xuống mặt ruộng đầy bùn, vái lạy: “Con của u
bây giờ mới về đây. Con lạy u, xin u tha tội cho. Con thật bất hiếu”. Ông còn
nói gì nữa đến mươi phút tôi không nghe hết được…
Lần
về Việt Nam gần đây nhất, trong lúc cạn chén, ông buồn rầu nói với tôi: “Chú ở
California, bang có 38 triệu người, bang có người Trung quốc và người Việt Nam
đông nhất nước Mỹ, nhưng mấy chục năm trời, chú luôn cảm thấy trống trải, như
đi ở nhờ. Trong lòng chú chỉ có một quê hương, đó là Hà Nội. Một năm mười hai tháng
với chú là mười hai tháng nhớ thương Hà Nội. Tiếng là người Hoa nhưng chú sinh
ra ở Hàng Buồm, lớn lên với ba mươi sáu phố phường, từ vỡ lòng đến đại học đều
học ở Hà Nội; trưởng thành và làm việc ở Hà Nội. Lúc còn nhỏ, mấy lần chú có theo
bố mẹ về cái miền quê nào đó ở Liễu Châu, Quảng Tây Trung quốc, nơi ông nội và
bà nội chú mất tại đó. Cái kí ức về miền quê ấy thật quá nhạt nhòa. Với gia
đình chú và nhiều gia đình người Hoa khác, Việt Nam thật ân nghĩa, đã nuôi dưỡng
và cưu mang những người Hoa, cả người sống lẫn người chết bao nhiêu thế hệ, bao
nhiêu năm trời. Giá như quan hệ Việt Trung thuận buồm xuôi gió thì cuộc sống của
chú thím có lẽ sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác”.Tôi biết ông rất thật lòng.
Chuyện cũ đã qua lâu rồi. Bây giờ tôi vẫn muốn biết một số chuyện khác ở ông. Mấy
lần về trước, ông cứ lấp lửng. Có lẽ vì một lí do nào đó, ông thấy chưa tiện
nói ra. Tôi nghĩ lần gặp gỡ này, ông sẽ không né tránh.
Quãng
đường từ sân bay quốc tế Dallas bang Texas tới sân bay quốc tế Los Angelles
bang California khoảng chừng 1240 miles, tương đương 1996 km. Khi xuống sân bay,
tôi nhìn đồng hồ mất đúng 2h 33 phút. Sân bay quốc tế Los Angeles nằm bên bờ
Thái Bình Dương, cách trung tâm Thành phố Los Angeles 24 km về phía tây nam.
Đây là một trong những sân bay lớn. Có 4 đường băng dài trên 3 km với 9 nhà ga.
Mỗi nhà ga có tới 13, 14 cửa. Tính trung bình mấy năm trở lại đây, lượng khách
qua sân bay lên tới trên 62 triệu người. Căn cứ vào lượng khách đến, người ta xếp
sân bay Los Angeles là sân bay lớn thứ 5 trên thế giới và là sân bay lớn thứ 3
của Hoa Kỳ.
Tôi
rất ấn tượng về Cali, không phải vì diện tích bang này rộng thứ 3, bang đông
dân nhất, có tổng sản phẩm quốc nội cao nhất Hoa Kỳ(gần 2 nghìn tỉ đô), cũng
không phải là vì bang có ngành công nghiệp giải trí khổng lồ như Hollywood,
Walt Disney, bang có nhiều thành phố lớn cũng như có nhiều bãi biển xinh đẹp
chan hòa nắng ấm quanh năm. Cali có một điều khoản rất đặc biệt trong hiến pháp
bang là dành 40% thu nhập cho hệ thống giáo dục công cộng. Tôi chưa hiểu rõ lí
do tại sao những nhà lập pháp bang Cali, cả thượng viện lẫn hạ viện lại thông
qua một điều khoản ưu ái cho giáo dục đến như vậy. Tôi biết chi tiêu cho giáo dục
phổ thông của Mỹ cao nhất thế giới. Bình quân họ chi 11.000 đô cho mỗi học sinh
tiểu học và 12.000 đô cho mỗi học sinh trung học trên một năm (ở Việt Nam khoảng
3,5 triệu đồng). Riêng ở Cali tôi chắc số tiền chi cho giáo dục còn cao hơn nhiều
so với con số trên.
Hệ
thống giáo dục đại học bang Cali cũng nhiều nét đặc biệt. Tuy số lượng các trường
đại học không phải là nhiều so với số lượng dân số và so với các bang khác,
nhưng sự phân tầng trong hệ thống và tiêu chí tuyển sinh chung rất rõ ràng, đơn
giản.
Thứ
nhất là hệ thống các trường đại học nghiên cứu bang California (University of
California, viết tắt là UC). Hệ thống UC có nhiều giáo sư, các nhà nghiên cứu
đã nhận được giải thưởng Nobel và được coi là một trong những hệ thống trường đại
học nghiên cứu công cộng hàng đầu của Hoa kỳ và thế giới. Hệ thống UC bao gồm
10 trường đại học thành viên với 234.464 sinh viên. Các trường này nhận 10% học
sinh có điểm trung bình cao nhất trong các trường THPT cùng với một số tiêu chí
khác.
Thứ
hai là hệ thống trường đại học bang California (California State University, viết
tắt là CSU). Hệ thống CSU cũng là hệ thống các trường đại học ưu việt của Hoa Kỳ
và thế giới. Hệ thống CSU bao gồm 23 trường đại học thành viên với tổng số
440.000 sinh viên. Các trường này nhận một phần ba số học sinh THPT có điểm cao
nhất cùng với một số tiêu chí khác.
Cuối
cùng là hệ thống trường cao đẳng cộng đồng (California Community College). Hệ
thống trường cao đẳng cộng đồng bao gồm 112 trường thành viên với gần 3 triệu
sinh viên. Hệ thống giáo dục này cung cấp chương trình giáo dục mang tính tổng
quát của bậc đại học (ở Việt Nam gọi là những môn chung) và những chương trình
nghề hết sức đa dạng. Sinh viên học xong cao đẳng cộng đồng 2 năm có thể đi làm
hay chuyển sang các trường đại học nghiên cứu UC hoặc các trường đại học bang
CSU học tiếp 2 năm để lấy bằng đại học. Ngoài ra Califonia còn có hàng trăm trường
cao đẳng và đại học tư thục. Tiêu biểu cho loại hình trường này là Đại học
Stanford, Đại học Nam California, Viện Công nghệ California… Đó là những trường
đại học tư thục nằm trong top đầu của Mỹ và thế giới.
California
nổi tiếng với địa danh: Thung lũng Silicon(Silicon Valley). Thung lũng Silicon
là tên gọi vùng đất phía nam của Vịnh San Francisco nằm ở phía bắc California.
Ban đầu cụm từ này được dùng để chỉ nơi có nhiều phát minh và các hãng sản xuất
những loại chíp Silicon, nhưng sau đó nó trở thành tên chung để chỉ nơi có nhiều
tập đoàn công nghệ cao, lớn nhất của Hoa Kỳ và thế giới. Người ta cho rằng
chính sách ưu tiên cho giáo dục, sự phát triển về chất của giáo dục đại học
trong đó có Đại học Stanfort đã đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển
của Thung lũng Silicon.
Bắt
đầu từ những năm 1950 Frederick Terman, Hiệu trưởng Trường Đại học Stanfort đã
khuyến khích giảng viên và sinh viên mới tốt nghiệp thành lập những công ty
công nghệ cao ngay trong khuôn viên của nhà trường. Có thể nói ông là cha đẻ của
Thung lũng Silicon. Đến những năm 1970, làn sóng đổi mới công nghiệp với sự hỗ
trợ của các công ty tư nhân diễn ra mạnh mẽ tại đây. Các mạch Silicon tích hợp,
bộ vi xử lí, máy tính và những ngành công nghệ cao chủ chốt phát triển mạnh mẽ.
24.000 lao động, những nhà khoa học từ các trường đại học trong vùng, các kĩ sư
lành nghề cùng với sự tài trợ của Bộ Quốc phòng Mỹ đã biến Thung lũng Silicon
thành một địa điểm bừng sáng. Mặc dù sau đó có rất nhiều mô hình trung tâm công
nghệ cao mọc lên ở Mỹ và các nước trên thế giới, nhưng Thung lũng Silicon California
vẫn là một trung tâm hàng đầu cho sự đổi mới và phát triển công nghệ cao.
Vừa
xuống sân bay Los Angeles tôi đã nhận được điện thoại của ông chú. Ông báo xe của
ông đã đến và đang chờ tôi ở cổng nội địa. Mặc dù hôm trước tôi nói với ông rằng
ông không phải đi đón. Tôi sẽ tự thuê xe taxi theo địa chỉ đến nhà, nhưng ông
không nghe. Ông muốn tranh thủ thời gian đưa tôi đi chơi một vài nơi trước khi
về nhà. Vừa trông thấy tôi, ông rảo bước tới ôm chặt lấy tôi và hỏi:
-
Bố mẹ cháu vẫn bình thường đấy chứ?
-
Vâng. Vẫn còn tàm tạm ông ạ. Thế ông bà
dạo này thế nào?
-
Chuối chín cây cả rồi. Năm nay bố mẹ
cháu 84 tuổi. Chú và thím cũng đã 75. Không biết chú thím có theo được bố mẹ
cháu không? Không biết chú còn về Việt Nam được mấy lần nữa?
-
Thím thì không biết thế nào. Chú trông vẫn
còn phong độ lắm.
-
Trông thế thôi. Mỗi năm chú thấy mình một
khác. Thím thì yếu hơn, phải uống thuốc Bắc suốt. Bà ấy thỉnh thoảng vẫn nhắc đến
bố mẹ cháu. Nếu không có bố mẹ cháu thì chú thím đã bỏ nhau vào giữa những
năm1970.
-
Thế mà chưa lần nào cháu nghe thấy bố mẹ
cháu nhắc tới chuyện đó.
-
Chuyện dài lắm. Chú còn nhớ như in lời
khuyên của ba cháu: “Bỏ vợ thì thất đức lắm chú ơi”. Mai mốt bảo thím kể cho
nghe. Bây giờ chú phải tập trung vào công việc lái xe trên đường.
Nếu
ở Việt Nam không ai nghĩ ông đã ở cái tuổi ngoài thất thập. Người ta đoán ông chỉ
khoảng 65 là cùng. Ông thuộc dạng người thấp, đậm. Khuôn mặt tròn đầy đặn. Nước
da ngăm đen. Đôi mắt rất sáng. Giọng nói thì còn sang sảng như cách đây tám,
chín năm ông đến nhà tôi. Đặc biệt phong thái ông nhanh nhẹn, hoạt bát. Và ông
lái xe thì còn rất trẻ, không kém tay lái trẻ nào trên đường đi.
Los
Angeles là thành phố lớn nhất của California và là thành phố lớn thứ hai của Mỹ
sau New York. Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, Los Angeles có nghĩa là
Thành phố của các thiên thần, bao gồm trên 13 triệu dân. Số liệu trên là người
ta tính cả vùng đại đô thị Los, còn trong thành phố thì chỉ có trên 3,9 triệu
người. Chính quyền thành phố được bầu lên theo chế độ dân cử, bao gồm một hội đồng
thành phố 15 người và một thị trưởng bầu theo nhiệm kì.
Xưa
kia khu vực thành phố Los là nơi chăn nuôi của người Mỹ bản địa. Năm 1781, thực
dân Tây Ban Nha cho xây dựng một thị trấn ở đây. Sau cuộc Chiến tranh Mexico - Hoa
Kỳ, Mexico phải nhượng cả một vùng lãnh thổ trong đó có California cho Hoa Kỳ.
Thành phố Los mới chính thức được xây dựng vào năm 1850. Nhưng phải đến nửa sau
thế kỉ 19 trở đi với sự phát triển của ngành công nghiệp mỏ, vận tải đường sắt
và đặc biệt là sau hai thế chiến với sự phát triển của ngành công nghiệp vũ
khí, Los mới nhanh chóng trở thành thành phố lớn nhất dọc bờ biển phía tây nước
Mỹ. Ngày nay nền kinh tế Los được thúc đẩy bởi thương mại và tài chính quốc tế,
công nghệ truyền hình giải trí, điện ảnh, viễn thông, công nghiệp âm nhạc, công
nghiệp chế tạo, dầu khí, thời trang…
Los
Angeles rộng nhưng không tập trung. Xen lẫn những khu nhà chọc trời thoáng
đãng, hiện đại là những khu nhà dăm bảy tầng và những khu nhà hai, ba tầng xinh
xắn chạy dài hàng km. Diện tích khu vực thành phố khoảng 1024 km2.
Dân thành phố đi làm, đi học, đi nhà thờ, nhà hàng, hiệu sách, siêu thị… đều bằng
xe ô tô. Ở khắp mọi nơi, chỗ nào tôi cũng thấy đường cao tốc, đường dẫn vào các
bãi đậu xe cùng với dòng ô tô di chuyển bất tận. Và lần đầu tiên ở Mỹ tôi chứng
kiến cảnh tắc đường. Có điều tắc đường ở đây chỉ khoảng dăm ba phút. Ông chú
tôi cho biết, người trên 18 tuổi ở thành phố này mà không có xe hơi là chuyện
hiếm. Vì thế đương nhiên Los là một thành phố bị ô nhiễm dưới dạng khói mù.
Ông
chú đưa tôi vào khu vui chơi giải trí nổi tiếng Walt Disney. Khu công viên này
do nhà làm phim hoạt hình Mỹ Walt Disney khởi công xây dựng. Sau này người ta lấy
tên ông để đặt tên cho nó. Trong công viên, chúng tôi không thể không dừng lại
để ngắm lâu đài Sleeping Beauty nguy nga ngoài sức tưởng tượng. Lâu đài là biểu
tượng của công viên với chủ đề về thế giới chuyện cổ tích và các nhân vật
Disney. Tôi đã được nghe chàng thanh niên Huân kể khá nhiều chuyện về những điều
tai nghe mắt thấy trong chuyến đi khám phá công viên này và được xem hàng trăm
bức ảnh do Huân chụp nhưng đến đây vẫn không khỏi ngạc nhiên về trí tưởng tượng
và sự sáng tạo kì diệu của con người. Các kiến trúc sư - nghệ sĩ tài ba đã tái
tạo nhiều phong cảnh hữu tình. Những nhánh sông chảy giữa hai bờ lau sậy với bè
gỗ đầy hoài niệm. Những cánh rừng nhiệt đới um tùm nhiều tán. Những lâu đài đền
các cùng với những phố cổ. Những ngọn núi hùng vĩ…
Bước
vào khu giải trí, chúng tôi được một đàn chuột Mickey chạy đến đón chào bắt tay
chúc mừng. Trong khu giải trí có tới 50 khu vực của thế giới ảo, thế giới mạo
hiểm, thế giới tương lai. Ông chú tôi vừa dẫn tôi đi vừa thuyết minh không ngừng.
Cuối cùng ông hỏi tôi: “Cháu tính một năm người ta đón khoảng 20 triệu khách,
trừ đi tất cả các chi phí cộng với tiền lương của 65 ngàn người làm việc ở các
bộ phận, còn lại người ta thu về được bao nhiêu”. Tôi không biết. Tôi chỉ biết
chắc chắn một điều là rất nhiều mô hình, ý tưởng ở công viên này và các công
viên giải trí khác của Mỹ được các công viên giải trí ở các nước như Trung Quốc,
Hồng Công, Đài Loan, Singapore, Thái Lan và cả Việt Nam bắt chước. Thì ra người
ta thường hay nói đến Mỹ không hẳn vì nước Mỹ giàu mạnh về kinh tế, quân sự và
khoa học kĩ thuật. Rất nhiều nước trên thế giới học Mỹ ở rất nhiều mặt nhưng có
một thứ người ta không học. Thậm chí người ta còn rất sợ. Đó là nền dân chủ, tự
do kiểu Mỹ.
Chúng
tôi đến thăm thành phố điện ảnh Hollywood nằm ở phía tây bắc Los. Xưa kia nơi
đây là khu vực ở của những người chăn nuôi gia súc. Vào đầu những năm 1880, một
gia đình người Mỹ tên là Henderson Wilcox ở Kansas đến đây lập nghiệp. Năm 1887
ông cùng vợ xây dựng một ngôi biệt thự lấy tên là Hollywood. Và cũng chính hai
vợ chồng ông đã phác thảo thành phố cùng với con đường chính mang tên Hollywood
Boulevard. Chắc chắn ông bà Wilcox thời gian đó không thể tưởng tượng được sau
gần 100 năm nó lại trở thành trung tâm điện ảnh của toàn thế giới.
Thời
tiết và cảnh quan ở khu vực này khá lí tưởng. Một năm có khoảng 300 ngày nắng ấm,
lại có rừng núi, đồng bằng, ven biển và sa mạc. Thiên thời địa lợi rất thích hợp
cho việc vận hành nền công nghiệp điện ảnh. Vì thế các công ty điện ảnh miền
Đông nước Mỹ ồ ạt đến xây dựng phim trường. Hollywood nhanh chóng trở thành
trung tâm điện ảnh toàn nước Mỹ. Hiện nay thành phố điện ảnh Hollywood có trên
180 trường quay, có đầy đủ không gian bối cảnh của toàn thế giới. Những bộ phim
được sản xuất tại đây chiếm hơn 2/3 số lượng phim ở nước Mỹ. Cho nên người ta mới
gọi Hollywood là kinh đô điện ảnh của thế giới.
Du
khách đến đây tham quan rất đông. Thế nhưng một số du khách đến thăm nơi đây cảm
thấy không được như kì vộng. Tôi còn nghe thấy một người phàn nàn với những người
xung quanh “Chẳng có gì để mà xem. Vậy mà sao đông người đến thế”. Đúng vậy. Nếu
chỉ ngắm nhìn nhà cửa phố xá thì đúng là chẳng có gì đặc biệt so với tầm vóc và
danh tiếng của Hollywood, nhưng để sáng tạo nên một tác phẩm điện ảnh đích thực
thì đâu phải là chuyện đơn giản. Họ có nhìn thấy lao động nghệ thuật của những
người nghệ sĩ đâu. Họ có được thấy công việc hậu trường bếp núc đằng sau một bộ
phim đâu. Họ có biết bao người đam mê nghệ thuật thứ bảy Bắc Mỹ từng ước ao
trong đời một lần được đến nơi đây đâu…
Hơn
7h00 chúng tôi mới về đến nhà. Chiếc xe dừng trước cửa ga ra. Cánh cửa sắt tự động
kéo lên. Bà thím chạy ra cửa đón. Tôi hoàn toàn ngỡ ngàng. Gần bốn mươi năm mới
gặp lại bà. Người phụ nữ thon thả, trắng trẻo, duyên dáng ngày nào bây giờ trở
thành một bà già. Tóc bạc trắng. Da mồi nhám, khuôn mặt nhăn nheo. Nước mắt bà
giàn giụa. Tôi bước tới ôm lấy đôi vai gầy guộc. Trong lòng se thắt lại.
-
Thím ơi!
-
Tóc con cũng bạc rụi rùi, bà nghẹn ngào
nói tiếp, nhớ Hà Nội hung. Năm sau tui sẽ zề.
-
Vâng. Bà về ở nhà cháu nhé.
-
Biết thế đã. Zô nhà, zô nhà, zô nhà. Ổng
kêu làm cả vằn thắn, sủi cảo, cơm tám, cá kho. Chắc đói hung rùi, ông con zô nhậu,
nhậu thui.
Đúng
vậy. Ngày xưa tôi ra Hàng Buồm với bà nội, lần nào thím cũng làm mì Vằn thắn và
Sủi cảo cho ăn. Tôi thích hai món này lắm. Còn lần nào chú thím về quê chơi, bà
tôi cũng thổi cơm tám cùng với cá kho. Tôi nhớ có lần chú thím ăn hết cả nồi. Chú
đứng dậy xoa bụng: “No quá u ơi”. Thím thì tủm tỉm cười: “Anh ăn đến thủng nồi
trôi rế”. Nói rồi, thím xếp nồi niêu bát đĩa vào mâm ra ao rửa. Bà cười, nhả miếng
trầu vào lòng bàn tay, nói với chú: “Anh may mắn vớ được cô ấy, vừa đẹp người vừa
đẹp nết, nhanh nhanh có cháu, u ra u trông cho”. Ôi thời gian. Thế mà đã gần bốn
mươi năm rồi.
Đến
lúc ngồi vào mâm tôi mới chợt nhận ra thím nói hệt giọng Nam từ âm sắc đến câu
chữ. Tôi nhìn ông chú như muốn hỏi. Hiểu ý tôi, ông bắt đầu kể lại toàn bộ sự
việc. Đại khái là ông được Bộ An ninh quốc gia, cơ quan tình báo lớn nhất của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa chiêu mộ vào đầu năm 1970 khi làm nghiên cứu sinh ở một trường
đại học ở Hồng Kông . Ông thuộc biên chế của Tổng cục 2, bộ phận thu thập tin tức
tình báo chiến lược ở nước ngoài. Sau khi đã hoàn thành khóa đào tạo “chuyên
môn, nghiệp vụ” cả nghĩa đen cũng như nghĩa bóng, ông quay trở lại Việt Nam năm
1974 với tấm bằng Tiến sĩ Lịch sử Đông Nam Á. Nhiệm vụ của ông là thu thập tin
tức về các nhân vật cao cấp, phân tích đánh giá năng lực, phẩm chất, quan điểm
chính trị của họ trong bộ máy cán bộ Đảng và Nhà nước Việt Nam; đồng thời thâm
nhập sâu vào đội ngũ trí thức Việt Nam để nắm bắt tình hình. Để hoàn thành nhiệm
vụ này ông sẽ phải lấy con gái một cán bộ người Việt có tầm cỡ trong Ban chấp
hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tổ chức Hoa Nam cục sẽ lo sắp xếp công việc
này. Vì vậy ông phải nhanh chóng li dị vợ. Nếu có khó khăn gì thì ông phải báo
cáo lên tổ chức.
Ông
nói đó là thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời. Ông không thể từ chối nhiệm vụ
được giao. Tay ông đã nhúng chàm. Cái tư tưởng Đại Hán“ Tu thân, tề gia” hoàn
toàn mâu thuẫn với việc “trị quốc, bình thiên hạ”. Ông không muốn theo gót chân
Trọng Thủy làm gián điệp ở Việt Nam. Ông càng không muốn rời bỏ vợ. Ông cũng
không muốn lừa gạt người phụ nữ nào và làm hại đất nước đã từng dung nạp, cưu
mang gia đình ông mấy thế hệ. Làm thế nào? Nếu ông phạm bất kì sai lầm nào
không những ông mà còn cả gia đình ông đều phải trả giá.
Sau
ngày 30 tháng Tư năm 1975, Bắc Kinh giao cho ông nhiệm vụ vào Sài Gòn móc lối với
các tổ chức Hoa Kiều ở miền Nam. Ông đã học tiếng miền Nam. Ông đã dạy vợ ông
nói tiếng miền Nam, âm thầm chuẩn bị cho gia đình ông một lối thoát. Năm 1978,
năm cải tạo tư bản tư thương ở miền Nam, rất nhiều người gốc Hoa nằm trong diện
đó. Chính ông đã cấp hàng trăm hộ chiếu giả cho họ theo lệnh của tổ chức, tuyên
truyền kích động họ rời khỏi Việt Nam, tạo nên cái gọi là tình trạng Nạn kiều ở
Sài Gòn để làm sụp đổ nền kinh tế ở miền Nam. Vào đúng thời gian cao điểm nhất,
hai vợ chồng ông đã nhận một cháu gái ở Quận 1 làm con nuôi, và ra đi cùng với
một số gia đình tư bản người Việt, chứ không phải là với tư cách gia đình người
Hoa.
Ba
mươi năm ông bà chạy trốn, chối bỏ thân phận thực của mình, tên tuổi thực của
mình, giọng nói thực của mình, tạo cho mình cái vỏ bọc dân miền Nam di tản. Tuy
vậy, vợ chồng ông ngày đêm sống trong lo âu, sợ một ngày nào đó bị người của Bộ
An ninh Đại lục phát hiện ra và bị thủ tiêu. Năm đầu tiên về nhà tôi, năm ông
cho rằng vợ chồng ông có lẽ đã thoát khỏi kiếp nạn tình báo “Trung cộng” nên đã
đánh liều. Còn có một lí do nữa, bà thím nói cho tôi biết là vào đầu những năm
2000, truyền hình Việt Nam phát sóng cho Việt Kiều ở nước ngoài trên kênh 4, trong
mục nói về Hà Nội thường phát đoạn hình ảnh cha tôi cắt tỉa cây cảnh ở vườn. Lần
đầu tiên, khi thấy hình cha tôi, ông cuống quít gọi bà lại xem có đúng không. Từ
hôm đó, ngày nào ông cũng mở TV ra xem. Ông nói cha tôi già rồi, nếu không về
thì e rằng ông không còn cơ hội gặp được cha tôi nữa.
Cơm
nước chuyện trò đến hơn 10h bà thím mới giục tôi đi nghỉ. Ông chú phụ họa:
-
Thôi chúng ta đi nghỉ đi, vừa nằm vừa
chuyện. Buồn ngủ thì ngủ.
Ông nắm tay tôi
rời phòng khách, qua phòng ăn, lên tầng hai. Có ba phòng trên tầng lầu: Phòng
ngủ ông bà, phòng cô con gái nuôi đã đi lấy chồng, hiện tại cô cháu gái vẫn đang
ở đó và phòng làm việc riêng của ông bà. Phòng làm việc riêng của ông bà có hai
bộ bàn ghế cùng với hai chiếc máy tính bàn nhìn ra hai cửa sổ. Bên phải và bên
trái, sát vách tường là hai giường cá nhân. Ông chỉ cho tôi chỗ để đồ rồi nói:
-
Chú đã buộc phải làm một số chuyện trong
quá khứ, nhưng chú đã cố gắng để giảm thiểu tác hại của nó. Thậm chí chú đã ngầm
mách bảo một cuộc chiến giữa hai nước có thể xảy ra. Hai chú cháu mình cứ nói
chuyện này thoải mái. Chú không phải là người Hán. Chú thuộc về một tộc người
Bách Việt. Chú là dân vong quốc nô. Chắc cháu biết đấy, những tộc Bách Việt như
Câu Ngô, Ư Việt, Dương Việt, Mân Việt, Điền Việt, Đông Việt, Nam Việt… ở phía
nam Trung Quốc, hầu hết họ đều bị người Hán chinh phục trong tiến trình lịch sử
và bị đồng hóa vào nền văn hóa Hán. Chỉ riêng người Việt Nam, hậu duệ của nhóm
Lạc Việt vẫn giữ được bản sắc của dân tộc mình và thoát khỏi sự thống trị của phong
kiến Trung Quốc sau năm 938 (năm Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng). Cháu đã từng nghe một giai thoại về Tôn Trung Sơn và Nguyễn Ái Quốc vào
đầu những năm 1920 chưa?
-
Có phải cái câu chuyện khi hai người gặp
nhau ở Quảng Đông hay ở một địa điểm nào đó. Có một nhà báo Trung Quốc giới thiệu
họ với các học giả, các nhà báo Phương Tây rằng cả hai người trong số họ đều là
những nhà ái quốc vĩ đại. Ông nhà báo Phương Tây lắc đầu và nói với người đồng
nghiệp Trung Quốc rằng, trong hai người chỉ có một người là nhà ái quốc vĩ đại
mà thôi. Nói rồi ông nhà báo phương Tây chỉ vào Nguyễn Ái Quốc: “Ông đó mới
đích thực là nhà ái quốc vĩ đại. Còn ông Tôn Trung Sơn đã mất nước từ hơn hai
nghìn năm trước rồi thì làm gì có đất nước để mà yêu nước”.
-
Thì ra cháu cũng biết chuyện đấy. Chú
tin chắc Tôn Trung Sơn không phải người Hán, không mang dòng máu Hán. Vì người
Hán từ xưa đến nay bất chấp mọi thủ đoạn để giành và giữ quyền lực. Người Hán
không bao giờ chia sẻ quyền lực dù là một ngày. Tôn Trung Sơn thì lại nhường chức
tổng thống cho Viêm Thế Khải. Và sau đó còn lập ra một hội đồng để điều hành đất
nước. Liệu ông có bao giờ nghĩ mình là dân vong quốc nô như chú không?
-
Dân Trung Quốc vẫn coi ông là Quốc phụ.
-
Một Quốc phụ của một dân tộc đã từng
tiêu diệt dân tộc mình.
-
Thật đáng buồn. Quan hệ Việt Trung trong
những ngày này thật xấu. Theo chú, khả năng xấu nhất có thể xảy ra không?
-
Quan hệ hai nước chưa đến nỗi xấu như những
gì đã diễn ra trong những ngày này. Trong những năm 70 của thế kỉ trước, tình
hình hai nước vô cùng căng thẳng và dẫn đến cuộc chiến tranh xâm lược dưới
chiêu bài “Phản kích tự vệ” do Tập đoàn Đặng phát động. Việt Nam có thể xâm lược
Trung quốc ư? Chẳng lẽ có nguy cơ đó ư? Trí tưởng tượng của Tập đoàn Đặng không
đến độ hoang tưởng và điên khùng như vậy đâu? Họ ủng hộ chế độ Pol Pôt ư? Chẳng
lẽ họ lại ủng hộ một chế độ mà cả thế giới lên án vì tàn sát gần 2 triệu người
thuộc chính dân tộc của mình nhân danh học thuyết thanh lọc giai cấp? Mặc dù
Khơ Me đỏ đã học theo mô hình của Người cầm lái vĩ đại Mao, mặc dù muốn làm quà
để thân với Mỹ và chứng tỏ mình chống Việt Nam và Liên Xô, tất cả đều chưa đủ
lí giải tại sao họ xâm lược Việt Nam. Sâu chuỗi các sự kiện lại: Năm 1956 họ
xâm chiếm những hòn đảo phía đông quần đảo Hoàng Sa, năm 1974 họ chiếm nốt những
hòn đảo phia tây quẩn đảo Hoàng Sa, năm 1988 họ chiếm một số đảo Hoàng Sa, bây
giờ họ đặt giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Chú cho rằng
nguyên nhân họ xâm lược Việt Nam là vì Việt Nam cản đường họ xuống phương nam.
Cái thời môi hở răng lạnh họ từng nói rằng, Trung ương Đảng Lao động việt Nam
phải giúp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đi xuống phương nam là gì? Việt
Nam có giúp không? Đương nhiên là sẽ có khả năng xấu nhất ở trên biển đảo.
-
Nhưng tình thế biển Đông bây giờ không giống
như năm 1974 và năm 1988.
-
Đúng, nhưng Trung Quốc mới chiếm bãi cạn
của Philippines đấy thôi. Hơn nữa Philippines còn là đồng minh của Mỹ. Họ có thể
tiến xa hơn chiếc giàn khoan.
-
Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ
đến nay, quan hệ thương mại không ngừng được củng cố và phát triển. Kim ngạch
hai chiều lên tới 50 tỉ đô la. Sau mấy chục năm đổi mới, vị thế của hai nước đã
thay đổi. Việt Nam đã có một vị thế nhất định trong khu vực và trên thế giới.
Trung Quốc đã trở thành một cường quốc thực thụ, một quốc gia có quyền lực về
kinh tế và đang khẳng định sức mạnh về chính trị và quân sự. Chiến lược của hai
nước đã có sự thay đổi. Trong hai thập niên, những tranh chấp chỉ giới hạn trên
bàn đàm phán ngoại giao và các biện pháp gây áp lực thì nay bằng giàn khoan di
động lãnh thổ, cùng với hàng trăm tàu các loại, trong đó có nhiều tàu chiến hiện
đại, Trung Quốc đang cố gắng hiện thực hóa đường lưỡi bò. Chắc chắn sẽ diễn ra
một cuộc đấu tranh giành và giữ chủ quyền mà tiêu điểm là biển đảo.
-
Cháu nói đúng. Tình thế chiến lược ở Biển
Đông bây giờ đã khác. Về mặt chiến lược, Trung quốc cảm thấy mình bị bao vây tứ
phía. Ở phía bắc là gấu Nga. Ở phía Tây là các quốc gia nhiễu loạn khủng bố. Ở
phía đông là khối đồng minh chiến lược Mỹ-Nhật-Hàn và một vùng lãnh thổ thù địch
Đài Loan. Vì thái độ hung hăng của Trung Quốc, liên minh này không ngừng được củng
cố. Trung Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn qua phía đông vươn ra vùng nước sâu của
Thái Bình Dương để trở thành cường quốc biển như mục tiêu họ đề ra. Phía tây nam Trung Quốc
giáp Ấn Độ và Mianmar. Trong khi đó, Ấn Độ, một đối thủ tranh chấp biên giới
đang cố gắng vươn lên trở thành cường quốc biển. Mỹ cũng đã có quan hệ cải thiện
và mở rộng hợp tác với cả Ấn Độ và Mianma, nên con đường đi qua Tây Nam mở rộng
quyền lực biển ở Ấn Độ Dương của Trung Quốc là rất hẹp. Chỉ còn hướng đông nam,
khu vực Biển Đông có vị trí chiến lược sống còn, lại hứa hẹn đủ dầu khí cho sự
phát triển kinh tế vài chục năm, là nơi thuận lợi nhất cho Trung Quốc tiến ra
Thái Bình Dương và các đại dương khác. Nhưng có lẽ Trung Quốc đã quá chủ quan,
tranh đoạt chủ quyền với tất cả các nước trong khối ASEAN như Việt Nam,
Philippines, Malaisia, Brunei cũng không phải là chuyện dễ dàng.
-
Chú thấy nhân tố Mỹ ở Biển Đông như thế
nào?
-
Với Mỹ, Biển Đông đã trở thành mục tiêu
chiến lược từ cuối thế kỉ 19. Nếu chú nhớ không lầm thì năm 1898 Mỹ đã thế chân
Tây Ban Nha chiếm Philippines, đánh dấu bước ngoặt lớn trong chiến lược ở Tây
Thái Bình Dương và Vịnh Manila đã trở thành ao nhà của Mỹ. Trong chiến tranh lạnh,
ở vịnh Subic và vịnh Cam Ranh, hải quân Mỹ đã hỗ trợ đắc lực cho chiến lược kiềm
chế Trung Quốc. Yêu sách phi lí và cách hành xử thô bạo mấy năm trở lại đây
trên biển Đông của Trung Quốc làm tất cả các nước Đông Nam Á lo lắng, và đang
thách thức lợi ích chiến lược của Mỹ. Đó là chưa kể đến Biển Đông là tuyến đường
huyết mạch của các đồng minh Mỹ ở Đông Bắc Á. Giá trị thương mại song phương của
Mỹ ở khu vực này lên tới 1200 tỉ đô la. Hơn nữa trọng tâm phát triển kinh tế thế
giới sẽ dịch chuyển về Đông Á. Vậy thì tại sao Mỹ lại nhường Biển Đông cho
Trung Quốc. Họ đang xiết chặt vòng kim cô quanh Trung Quốc. Chính Trung Quốc đã
khiến Mỹ quay trở lại châu Á và can dự tích cực vào Biển Đông. Và hiện tại, người
Mỹ đã nhiều lần phản đối hành động khiêu khích đưa giàn khoan Hải Dương Trung
Quốc vào thềm lục địa Việt Nam. Không phải hoàn toàn vì quyền lợi của Việt Nam
mà vì quyền lợi của Mỹ.
-
Không chỉ có ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, Ấn Độ,
Nga, Australia, nhiều nước khác cũng có lợi ích trên Biển Đông.
-
Chính xác. Chú cho rằng vận mệnh của Nhật
bản gắn liền với Biển Đông. Sự an toàn của dòng hàng hóa vận chuyển qua biển
Đông đối với Nhật còn quan trọng hơn cả Mỹ. Khu vực này còn là nơi có khả năng
cung cấp một nguồn tài nguyên phong phú bổ sung cho sự phát triển của kinh tế
Nhật. Sự gia tăng sức mạnh kinh tế và quân sự cùng với những hành động bành trướng
của Trung Quốc trên Biển Hoa Đông và Biển Đông càng làm gia tăng sức ép địa
chính trị, kinh tế đối với Nhật. Trong bối cảnh ASEAN, nhất là Philippines và
Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để củng cố yêu sách chủ quyền của mình,
Nhật đã tăng cường can dự vào Biển Đông để duy trì ảnh hưởng vốn có của họ tại
khu vực Đông Nam Á, và tạo thế tốt hơn trong tranh chấp chủ quyền tại quần đảo
Senkaku với Trung Quốc. Có thể nói Nhật đã làm rất nhiều việc đối với ASEAN và
đối với từng nước trong ASEAN. Nhật cũng hưởng ứng mạnh mẽ quan điểm giải quyết
vấn đề lãnh hải trên Biển Đông theo Luật Biển Quốc tế UNCLOS năm 1982, phản đối
việc đặt giàn khoan giàn khoan Hải Dương cùng với việc Trung Quốc đâm chìm tàu
cá Việt Nam. Nhật đang đi đầu trong việc thành thành lập một liên minh cùng đối
phó với tham vọng của Trung Quốc. Tương tự như vậy, mối quan tâm của Ấn Độ đối
với Biển Đông cũng gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, không chỉ bắt
nguồn từ quan hệ truyền thống từ hàng ngàn năm trước, mà do nhu cầu mở rộng
không gian hợp tác kinh tế và an ninh với các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương như Mỹ, Nhật, Australia để giảm áp lực cạnh tranh với Trung Quốc ở Ấn Độ
Dương và Nam Á. Hơn nữa, tuyến đường biển Đông chiếm gần 50% hoạt động thương mại
của Ấn Độ. Chính sách Hướng Đông của nước này nhằm khẳng định vị thế cường quốc
ở châu Á, được tất cả các nước ASEAN chào đón với hy vọng mang lại lợi ích to lớn
cho cả hai bên. Trên thực tế, Ấn độ đang hợp tác rất chặt chẽ với Việt Nam
trong lĩnh vực thăm dò dầu khí ở biển Đông cũng như hợp tác về quốc phòng. Thế
thì tại sao họ lại vì Trung Quốc mà bỏ khu vực này. Còn một ông lớn nữa chú cho
rằng không thể bỏ qua, đó là nước Nga, một cường quốc nằm ở khu vực châu Á-Thái
Bình Dương nên họ không thể bỏ qua lợi ích ở Biển Đông. Ngoài lợi ích thông
thương hàng hải như các nước khác, nước Nga còn có quan hệ hữu nghị truyền thống
và lợi ích hợp tác nhiều mặt với Việt Nam, nước có vùng đặc quyền kinh tế lớn ở
biển Đông mà Nga đã đầu tư, thăm dò và đang khai thác dầu khí ở Biển Đông. Hơn
nữa với tư cách là một nước lớn, đang trên đường phục hồi vị thế vốn có của họ,
nước Nga khó có thể bỏ qua lợi ích chiến lược mang tính toàn cầu. Biển Đông chắc
chắn nằm trong chiến lược của họ. Không phải ngẫu nhiên họ tuyên bố sẵn sàng
tham gia hiện đại hóa cảng Cam Ranh thành trung tâm dịch vụ hải quân quốc tế,
bán vũ khí tàu ngầm hiện đại, máy bay chiến đấu Su 30, tên lửa hành trình
Bastion cho Việt Nam, Malaisia, Indonesia, những nước có tranh chấp chủ quyền
biển Đông với Trung Quốc. Cháu có cho rằng Nga bỏ biển Đông để cho Trung Quốc độc
chiếm? Lợi ích của Nga trong tương lai là không nhỏ. Chắc chắn họ sẽ không bỏ.
Đó là chưa kể đến Australia và đặc biệt là khối ASEAN, họ muốn để Trung Quốc biến
Biển Đông thành cái ao nhà ư? Không, không đâu.
-
Như vậy là chú cho rằng với tầm quan trọng
của Biển Đông, nếu xảy ra sự đối đầu giữa Trung Quốc và Việt Nam thì đây không
chỉ đơn thuần là sự đối đầu giữa Trung Quốc với Việt Nam mà là sự đối đầu giữa
Trung Quốc với một liên minh nhiều quốc gia khác.
-
Chính xác. Chỉ có điều Việt Nam phải
tham gia vào liên minh này.
-
Thế có nghĩa là phải trở thành một người
lính xung kích? Theo cháu thì Việt Nam sẽ tranh thủ sự đồng thuận của các quốc
gia có chung lợi ích nếu chủ quyền bị đe dọa, nhưng tham gia liên mình thì chưa
chắc, vì Việt Nam luôn luôn chủ trương “độc lập, tự chủ”, “đa phương hóa, đa dạng
hóa” trong quan hệ đối ngoại.
-
Nhưng nếu “Lịch sử chọn ta làm điểm tựa”
và bắt buộc ta phải lựa chọn giống như thời chống Mỹ, bắt buộc ta phải liên
minh với phe xã hội chủ nghĩa là gì.
-
Cháu nghĩ cả Việt Nam và Trung quốc đều
không muốn lựa chọn phương án này.
-
Hy vọng như vậy. Hy vọng những cái đầu
nóng ở Bắc Kinh nên tỉnh táo. Nếu không, biển Đông với giấc mơ phục hưng Đế chế
Trung Hoa sẽ trở thành cơn ác mộng của người Trung Hoa…
Đêm
đã về khua. Cả ông chú lẫn tôi đều không muốn tiếp tục đề tài này nữa. Tôi biết
ông chưa ngủ. Và tôi cũng không thể ngủ được vì những điều ông đưa ra bàn luận.
Ông nói với tôi trong suốt chiều dài lịch sử, người Việt đã bị Trung Quốc xâm
lược 20 lần. Cụ thể nhà Ân một lần. Nhà Tần một lần. Nhà Hán 4 lần. Nhà Lương 3
lần. Nhà Tống 2 lần. Nhà Minh một lần. Nhà Thanh một lần. “Trung Cộng”4 lần.
Ông tính cả một lần vào năm 1956, chớp lấy cơ hội Pháp rút khỏi Việt Nam, bàn
giao phần lãnh thổ phía nam cho chính quyền Miền Nam Việt Nam, Trung quốc đã
chiếm toàn bộ phía đông quần đảo Hoàng Sa. Tần xuất xâm lược Việt Nam là 150
năm một lần. Riêng từ khi xuất hiện Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì tần xuất gấp
10 lần so với các thời kì phong kiến Trung Quốc. Cái giấc mộng Thiên triều đang
khiến Trung Nam Hải như kẻ mộng du trượt dài những bước phiêu lưu mới với Việt
Nam và khu vực biển Đông.
Tôi
không nghĩ giống ông chú. Mặc dầu ông là dân chuyên về Đông Nam Á, đồng thời cũng
là chuyên gia giảng dạy về chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ở Đông Á tại một trường
đại học tư thục trong thành phố Los. Ông có kiến thức sâu hơn tôi về lĩnh vực
này. Nhưng chẳng lẽ Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh với Việt Nam một lần nữa?
Chẳng lẽ họ muốn biến mình thành một cường quốc đơn độc duy nhất trên hành tinh
này. Những toan tính về địa chính trị, địa kinh tế của các cường quốc từ xưa đến
nay đều bị lịch sử chôn vùi theo thời gian. Chẳng lẽ họ không hiểu người Ý đã
không thể làm sống lại được Đế chế La Mã; không hiểu Đế chế Ôttoman đã từng nuốt
biển Địa Trung Hải và những bài học đắng cay sau đó của họ. Từ sau Chiến tranh
thế giới lần 1, thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp, Mỹ cũng dần
dần phải từ bỏ hệ thống thuộc địa, không thể giữ nổi một vùng đất xâm chiếm vốn
không phải của mình. Huống chi Trung Quốc bây giờ vẫn chỉ là một quốc gia đang
phát triển, lại đắm chìm trong cái giấc mộng của thời kì phong kiến xa xưa. Tôi
nghĩ Bắc Kinh chưa đủ tầm. Như ông chú tôi nói, họ đúng là kẻ mộng du dân tộc
chủ nghĩa, cái tư tưởng đã dẫn đến chủ nghĩa Phát xít. Điều tôi lo ngại không
phải là Trung Quốc bành trướng xâm lược. Điều mà tôi lo ngại nhất là họ tìm mọi
cách để đạt được thỏa thuận chia sẻ lợi ích với cường quốc khác, giống như Tập
nhiều lần nói “ Thái Bình Dương đủ rộng cho cả Mỹ và Trung Quôc” hoặc cái điều
đã từng xảy ra với Việt Nam và các quốc gia nhỏ trong suốt thời kì chiến tranh
lạnh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét