Shangri-la 16
Đối
thoại Shangri-la 16 đã thu hút sự tham dự của gần 50 bộ trưởng và quan chức cao
cấp quốc phòng, an ninh của các quốc gia trên thế giới. Đúng như dự đoán của
nhiều nhà phân tích, đối thoại Shangri-la năm 2017 tập trung thảo luận các chủ đề:
Mỹ và an ninh khu vực châu Á-Thái Bình Dương; duy trì trật tự trong khu vực dựa
trên các nguyên tắc; thách thức mới đối với quản lý khủng hoảng ở châu Á-Thái
Bình Dương; thay đổi địa chính trị và chính sách quốc phòng; xây dựng nền tảng
chung về an ninh khu vực cũng như các mối đe dọa toàn cầu.
Một
trong những trọng tâm được đưa ra thảo luận là làm sao duy trì được trật tự dựa
trên việc tuân thủ luật pháp quốc tế, trật tự phải bảo vệ có hiệu quả những lợi
ích của tất cả các nước trong khu vực.
Tình hình khu vực
Nếu
như Biển Đông và vụ Philippines kiện Trung Quốc đã chi phối Đối thoại
Shangri-la năm 2016 thì lần này vấn đề Biển Đông vẫn tiếp tục là chủ đề cấp
bách ngoài những vấn đề nằm trong chương trình nghị sự, cho dù những căng thẳng
có phần lắng dịu. Việc các nước ASEAN và Trung Quốc gần đây đạt được sự nhất
trí nội dung dự thảo Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở Biển Đông (COC) được xem
là một tín hiệu tích cực, mở đầu cho quá trình đàm phán để xây dựng văn kiện
COC thực chất, có tính ràng buộc nhằm ngăn chặn xung đột trong khu vực.
Tuy
nhiên, việc Trung Quốc tiến hành tôn tạo và xây dựng phi pháp các đảo nhân tạo
trên các bãi đá và rạn san hô đã phủ bóng mây đen lên khu vực, khiến nhiều
chuyên gia nghi ngờ về khả năng ASEAN và Trung Quốc sớm đạt được thỏa thuận mà
hai bên có thể chấp nhận được. Tổng thư ký ASEAN Lê Lương Minh đã kêu gọi Trung
Quốc và ASEAN nhanh chóng bắt đầu thảo luận các yếu tố cụ thể của Bộ quy tắc ứng
xử trên Biển Đông. Dẫu sao thì quá trình đàm phán vẫn là bước hết sức cần thiết
cho việc xây dựng lòng tin nhằm tránh những sự cố có thể dẫn đến sự xung đột
trong tương lai.
Cùng
với vấn đề Biển Đông, tình hình bán đảo Triều Tiên cũng thu hút sự quan tâm của
Diễn đàn đối thoại. Bình Nhưỡng liên tiếp tiến hành thử tên lửa đạn đạo và có khả
năng còn thử cả hạt nhân lần thứ 6 đang đặt ra những thách thức cho an ninh khu
vực. Làm sao có thể giải quyết căng thẳng có thể dẫn tới chiến tranh trên bán đảo
là một bài toán cực kỳ nan giải.
Một
vấn đề gây căng thẳng ở khu vực Đông Bắc Á là việc Mỹ triển khai Hệ thống phòng
thủ khu vực tầm cao giai đoạn cuối (THAAD) để phòng chống tên lửa của Bắc Triều
Tiên. Phía Trung Quốc cho rằng hệ thống ra đa của THAAD không loại trừ hoạt động
do thám, nhất là các hoạt động tên lửa của Trung Quốc. Bắc Kinh đã có động thái
thử tên lửa đáp trả hành động của Mỹ, tạo thêm căng thẳng trong khu vực.
Cuối
cùng là nguy cơ khủng bố đáng báo động tại khu vực Đông Nam Á. Một loạt vụ đánh
bom liều chết ở Indonesia, vụ một thành phố miền Nam Philippines bị chiếm đánh
có liên quan tới hoạt động tấn công của một nhóm phiến quân ủng hộ tổ chức Nhà
nước Hồi giáo IS đang làm giấy lên những nỗi lo ngại khu vực Đông Nam Á có thể
trở thành một địa bàn của IS, gây bất ổn trong khu vực. Các nước trong khu vực
sẽ phải phối hợp với nhau như thế nào trước một thách thức vừa cũ vừa mới này.
Tuyên bố của Bộ Trưởng
Quốc phòng Mỹ James Mattis
Tại
diễn đàn năm nay, mọi quan tâm đổ dồn vào tuyên bố thể hiện quan điểm, lập trường
và chính sách của Mỹ đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung và Đông
Nam Á nói riêng, bởi đây là Đối thoại Shangri-la đầu tiên kể từ khi Tổng thống
Donald Trump lên cầm quyền.
Nhiều
nhà quan sát quốc tế kỳ vọng Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mattis sẽ tiếp tục chiến dịch
tự do hàng hải trên Biển Đông và hối thúc Trung Quốc tuân thủ phán quyết của
Tòa Trọng tài Quốc tế. Nhiều người cũng hy vọng Mỹ có những biện pháp cụ thể,
tiếp tục tuần tra, tập trận trên vùng biển quốc tế tại Biển Đông như Bộ trưởng
Quốc phòng Mỹ Ashton Carter, người tiền nhiệm của ông Mattis đã từng làm.
Trong
bài phát biểu với chủ đề “Mỹ và an ninh châu Á-Thái Bình Dương ngày 3 tháng 6 Bộ
trưởng Mattis đã cảnh báo Trung Quốc không được quân sự hóa hoạt động trên các
đảo tranh chấp tại Biển Đông: “Chúng tôi phản đối tất cả các nước quân sự hóa
các đảo nhân tạo và yêu sách chủ quyền hàng hải quá đáng, không tuân thủ pháp
luật quốc tế. Chúng tôi không thể và sẽ không chấp nhận bất cứ hành động đơn
phương và cưỡng bức nhằm thay đổi hiện trạng trên Biển Đông”. Bộ trưởng Mattis cũng
đã chỉ trích các hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông và Biển Hoa Đông,
đồng thời nhấn mạnh: “Mỹ không thể và sẽ không chấp nhận những thay đổi mang
tính đơn phương và ép buộc đối với nguyên trạng làm ảnh hưởng tới lợi ích của cộng
đồng quốc tế cũng như phá vỡ trật tự dựa trên luật lệ”. Người đứng đầu Lầu Năm
Góc cũng khẳng định: “Chúng tôi sẽ tiếp tục bay, giong buồm và hoạt động ở bất
cứ nơi nào luật pháp quốc tế cho phép”.
Với
những phát biểu như vậy, giới phân tích cho rằng Chính quyền mới của Mỹ đã phát
đi một thông điệp rất rõ với Trung Quốc và Mỹ vẫn tiếp tục theo đuổi các chính
sách ở châu Á, khu vực mà Mỹ sẽ ưu tiên và nỗ lực trong chiến lược xây dựng
quan hệ với các đồng minh. Mặc dù ông Mattis không đề cập đến việc xây dựng mạng
lưới an ninh tập thể của người tiền nhiệm, nhưng trên thực tế, giới quân sự Mỹ
vẫn đang củng cố, triển khai mạng lưới theo tinh thần đã định để đối phó với những
hành động quân sự hóa Biển Đông của Trung Quốc.
Tại
Shangri-la 2016, để đối phó với căng thẳng tại Biển Đông, người tiền nhiệm của
Mattis là Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter thời Tổng thống Obama đã đưa ra
nhiều biện pháp để giải quyết những thách thức ở Biển Đông. Ông tuyên bố xây dựng
mạng lưới an ninh tập thể mới (Collective security network) dựa trên các nguyên
tắc cốt lõi mà Mỹ tin rằng có thể đoàn kết các nước trong khu vực. Các nguyên tắc
đó là chủ quyền, quyền tự quyết, giải quyết hòa bình các tranh chấp, tự do hàng
hải, hàng không (Xin xem bài Hội nghị thượng đỉnh An ninh châu Á năm 2016 của
tôi cũng trong blog này)…
Thực
tế mạng lưới an ninh đã mở ra triển vọng các quốc gia phối hợp cùng nhau để đối
phó với các thách thức truyền thống và phi truyền thống, trong đó có Sáng kiến
An ninh Hàng hải Đông Nam Á. Ngày 2/10 tại Hội nghị không chính thức Mỹ -ASEAN,
ông Carter cho biết sẽ tổ chức các sự kiện Mỹ-ASEAN trong khu vực, bao gồm cả đối
thoại hàng hải và tập trận nâng cao nhận thức hàng hải. Mỹ sẽ duy trì mạng lưới
an ninh qua việc giữ gìn môi trường ổn định ở châu Á-Thái Bình Dương bằng sức mạnh
vượt trội và thông qua hợp tác với các đồng minh truyền thống, thông qua các đối
tác trong khu vực.
Nhiều
dấu hiệu cho thấy về mặt chính trị và quân sự, Chính quyền Trump đã và sẽ tiếp
tục những bước đi dưới thời Tổng thống Obama trong cả thực tiễn lẫn chiến lược.
Bộ trưởng Mattis đã nêu một chiến lược 3 điểm của Chính quyền Donald Trump sẽ
áp dụng ở khu vực này. Thứ nhất ông Mattis nhấn mạnh nỗ lực hàng đầu của Mỹ là
tăng cường quan hệ liên minh với Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Philippines và
Thái Lan. Thứ hai Mỹ có kế hoạch tăng cường sức mạnh cho các quốc gia khác ở
châu Á để các nước này có thể đóng vai trò lớn hơn trong việc bảo vệ chủ quyền,
an ninh của mình. Bộ trưởng Mattis coi Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam, Singapore và
Đài Loan là các đối tác quân sự quan trọng. Thứ ba, Bộ trưởng Mattis đề ra các
kế hoạch nhằm thúc đẩy các năng lực quân sự của Mỹ ở châu Á, coi sức mạnh quân sự
là nền tảng cho ngoại giao. Ông cho biết 60% phương tiện trên không của Mỹ ở nước
ngoài sẽ sớm được phân bố tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Quan điểm của một số
nước
Trong
bài phát biểu đề dẫn của mình, Thủ tướng Australia Malcolm Turnbull đã mạnh mẽ
cảnh báo những hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông gần đây. “Một Trung Quốc với
cách hành xử cưỡng ép sẽ nhận thấy các quốc gia láng giềng đang phẫn nộ trước
những yêu cầu nhằm buộc họ phải nhượng bộ quyền tự quyết và không gian chiến lược”.
Trung Quốc “sẽ chẳng nhận được gì” nếu sử dụng vũ lực ở Biển Đông. Theo Thủ tướng
Malcohm Turnbull, trong trường hợp phải đối đầu với “một Trung Quốc áp bức”,
các nước láng giềng “sẽ tìm cách tạo đối trọng trước sức mạnh của Trung Quốc bằng
cách tăng cường liên minh và quan hệ đối tác với nhau và đặc biệt là với Hoa Kỳ”.
Thậm chí ông kêu gọi các quốc gia châu Á hỗ trợ vai trò lãnh đạo của Mỹ ở khu vực.
Bộ
trưởng Quốc phòng Nhật Bản Tomomi Inada cho rằng luật pháp quốc tế có thể thay
đổi dựa trên tình hình thực tế, nhưng không thể phá bỏ hiện thực, và việc làm
xáo trộn trật tự quốc tế là một việc làm “thiếu sáng suốt”. Bà Bộ trưởng tuyên
bố Nhật Bản cam kết giúp xây dựng sự tự tin và năng lực với các đối tác ASEAN để
đảm bảo an ninh khu vực “ngay cả khi sự khiêu khích” của Trung Quốc ở trên Biển
Đông và Hoa Đông ngày càng gia tăng. Bà nói với các nhà lãnh đạo an ninh và quốc
phòng trong khu vực: “Bây giờ là thời điểm để bảo vệ trật tự dựa trên luật
pháp” trước những nỗ lực “không có kiểm soát và đơn phương của Trung Quốc để
thay đổi hiện trạng ở Biển Đông và Hoa Đông”.
Phát
biểu tại Đối thoại Shangri-la 16, Thứ trưởng Bộ Công An Việt Nam Bùi Văn Nam nhấn
mạnh một trong những biện pháp ngăn ngừa xung đột giữa ASEAN và Trung Quốc thì
hai bên cần triển khai việc áp dụng Bộ quy tắc tránh va chạm bất ngờ trên Biển
Đông cũng như vận hành đường dây nóng ngoại giao giải quyết sự cố trên biển một
cách thực chất và hiệu quả. Thứ trưởng Bùi Văn Nam nhấn mạnh một nước không được
viện lý do áp dụng nội luật để né tránh khắc phục sự cố xảy ra trên biển khi được
yêu cầu qua đường dây nóng. Thêm vào đó Bộ quy tắc tránh va chạm trên Biển Đông
cần được áp dụng cho tất cả tàu thuyền của chính phủ hoạt động ở Biển Đông.
Ngoài ra ASEAN và Trung Quốc cần sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông
(COC) mang tính ràng buộc, toàn diện, thực chất và trở thành công cụ hữu hiệu
giúp ngăn ngừa xung đột, duy trì hòa bình ổn định an ninh và an toàn hàng hải,
hàng không ở Biển Đông trên nguyên tắc COC phải là công cụ giải thích và giải
quyết tranh chấp. Ông Nam nêu quan điểm “Việt Nam ủng hộ bất kỳ sáng kiến, cơ
chế hợp tác nào có lợi cho việc duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy giải quyết
hòa bình các tranh chấp trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế”.
Về
phía Trung Quốc, năm 2011 Bộ trưởng Quốc Phòng Trương Quang Liệt tham dự
Shangri-la, nhưng ngay sau năm đó họ bắt đầu hạ thấp dần cấp bậc trường đoàn
tham dự Shangri-la, và đến năm nay họ cử một trưởng đoàn đại diện cấp bậc thấp
đến khác thường, Trung tướng Hà Lôi- Viện phó Viện Khoa học Quân sự.
Đa
số các nhà phân tích cho rằng vì Trung Quốc không muốn thảo luận về các tranh
chấp trên Biển Đông tại các hội nghị đa phương. Trung Quốc chỉ muốn thương lượng
song phương về Biển Đông. Người ta còn cho rằng nếu phải cử cấp cao nhất, có lẽ
Trung Quốc xấu mặt không có đường lùi giống như trường hợp của Bộ Trưởng Trương
Quang Liệt, bị hỏi dồn những câu hỏi không thích trả lời, luôn phải né tránh,
xoa dịu những vẫn đề gây tranh cãi. Thậm chí phải rời sân khấu mà không đáp lời
khán giả.
Nhiều
chủ đề Shangri-la năm nay đề cập đến những vấn đề khiến Bắc Kinh khó chịu nên họ
cử một phái đoàn toàn những người không có vai trò gì trong việc ra quyết sách.
Rõ ràng Bắc Kinh đã thể hiện thái độ như muốn bảo “Chúng bay cứ bàn, tao không
quan tâm, việc tao tao cứ làm”. Bước đi trên thể hiện thái độ né tránh, thiếu bản
lĩnh, không dám đối mặt với sự thật. Người ta cho rằng còn lâu Bắc Kinh mới là
một thủ lĩnh trong khu vực, vậy mà lại đi ôm cái “giấc mộng Trung Hoa” làm siêu
cường.
Kết
luận
Shangri-la
16 đã khép lại. Riêng về vấn đề Biển Đông, ngoài bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc
phòng Mỹ, cộng đồng quốc tế cũng như trong khu vực đều rất quan tâm tới thông
điệp của Thủ tướng Australia trong bài phát biểu khai mạc. Thứ nhất nó toát lên
tinh thần tôn trọng chủ quyền các quốc gia. Các nước lớn nhỏ phải hành xử thượng
tôn pháp luật trong tất cả các vấn đề quốc tế. Tiếp đến nó cũng thừa nhận vai
trò của Mỹ trong các vấn đề an ninh khu vực, đồng thời thừa nhận sự trỗi dậy của
Trung Quốc tại khu vực đã đem lại lợi ích chung cho các quốc gia vừa và nhỏ
cùng phát triển.
Với
Việt Nam, Shangri-la chắc chắn gợi mở ra nhiều vấn đề cho các nhà hoạch định
chính sách nhằm ứng phó với tình hình trong khu vực đầy biến động và phức tạp.
Ngày
10/6/2017