Leave a Comment

 Hội làng Xuân Trạch Đông Anh

Sáng sớm ngày10 tháng Ba Âm lịch, ngày quốc lễ giỗ tổ, tôi chợt nhớ đến mẹ anh bạn Nguyễn Đắc Tính. Gần như năm nào tôi cũng thu xếp sang thăm cụ một lần. Năm nay cụ đã 96 tuổi, một bà mẹ phúc hậu, đơn thân vợ liệt sỹ. Nhiều năm trước, mặc dù kém mắt không nhìn thấy, nhưng chỉ cần nghe tiếng từ xa, tôi chưa kịp chào hỏi thì cụ đã lên tiếng: “Anh Huệ phải không? Các cụ bên ấy dạo này thế nào?” Năm trước đến chơi cụ đã đau yếu không còn nhận ra tôi nữa. Thế là không gọi điện cho bạn, tôi liền phóng xe đi.
Qua cầu Long Biên, qua cầu Đông Trù, dọc theo đê sông Đuống đến cây gạo đầu Làng Xuân Trạch, tên cũ là làng Canh Trầm/Chầm, một ngôi làng cổ, tôi thấy nhiều lá cờ hội phần phật tung bay và rất nhiều loại xe con đỗ bên vệ đường vào làng. Nghe tiếng trống liên hồi giục giã, tôi thầm nghĩ chẳng lẽ hôm nay ngày hội. Vậy mà tôi chưa bao giờ nghe bạn mình nói về lễ hội làng anh.
Vào nhà chỉ có vợ anh ở nhà trông cụ, còn anh Tính trong ban tổ chức lễ hội đang vào việc hội. Tôi vào phòng chào cụ nhưng cụ đang ngủ. Vợ anh Tính định gọi cho chồng, tôi ngăn lại để ra hội gặp anh. Cũng như các lần trước anh nhẹ nhàng trách tôi sao không gọi điện trước, vì nếu có bận việc gì thì anh cũng thu xếp ở lại nhà. Tôi trách lại anh. Anh Tính phân trần: Tôi định sang năm, hết hoi Covid mới mời anh đến xem hội, vì tôi cũng mới biết anh là dân nghiền “hội hè đình đám”.
Anh Tính giới thiệu tôi với ban tổ chức, với các cụ. Thế là tôi mặc sức hòa vào “thượng tầng” của không gian lễ hội để tìm hiểu. Cũng như bao lễ hội làng khác lễ hội làng Canh Trầm gắn liền với tín ngưỡng thờ thành hoàng làng, một tín ngưỡng phổ biến ở làng quê Việt. Nó là biểu tượng thiêng liêng nhất của cả làng, là sự kết hợp đỉnh cao của tín ngưỡng sùng bái con người và tín ngưỡng sùng bái thần linh.
Đình và đền làng Xuân Trạch cùng nằm trên một khoảnh đất, có liên quan về lịch sử cũng như nghi lễ thờ cúng. Điều đặc biệt là cả hai mẹ con vị thần thành hoàng làng đều được dân làng thờ cúng. Mẹ được thờ ở đền, con được thờ ở đình. Qua quan sát và qua lời các cụ tôi được biết đây là lễ hội dân gian (có nhiều loại lễ hội) thờ Thần Thành hoàng Xạ Thần Quốc Cao Minh sơn và Thánh Mẫu, mẹ đẻ của Ngài.
Đình và đền ở làng Xuân Trạch đều được xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa năm 1996. Hội làng diễn ra từ ngày 8 đến 13 tháng Ba (chính hội là mồng 10) diễn ra các hoạt động tế lễ Xạ thần quốc. Riêng ngày 13 là hội đền, ngày hội Chư bàThánh Mẫu (các cụ truyền lại, Thánh Mẫu góa bụa sớm nhưng vẫn giữ lòng thủy chung trinh tiết, được dân làng tôn vinh. Vì vậy, xưa kia trong hội này chỉ những phụ nữ góa bụa mới được vào ban tế lễ. Đó là một tục khác biệt nhằm tôn vinh sự thủy chung của người phụ nữ).
Theo cuốn lịch sử văn hóa làng Canh Trầm, theo “Xạ thần bi ký”, “Vương phả cổ lục” và các bản sắc phong từ thời Vua Lê Cảnh Hưng (xin cảm ơn anh Tính đã cung cấp cho tôi các tư liệu này) đến các vua nhà Nguyễn, làng được lập từ thuở các Vua Hùng dựng nước. Xạ Thần Quốc Lang là con thứ 5 của Hùng Nghị Vương, em của vua Hùng thứ 18. Hùng Nghị Vương được lệnh đem binh đi dẹp giặc ở biên giới. Khi thắng trận trở về qua trang Canh Trầm có một người con gái diện mạo thanh cao, khí chất hòa ái đang cắt cỏ. Người con gái đó là con một bậc phú hào họ Trương. Tên nàng là Trương Trinh Ngoạn, hiệu là Ngoạn Phi Vân, sắc đẹp chim sa cá lặn. Vương đem lòng yêu dấu, đưa về triều, lập làm phi thứ tư. Một thời gian sau, vào ngày 10 tháng Ba năm Ất Sửu, nàng Phi Vân sinh được một bé trai tuấn tú hơn hẳn người thường, được đặt tên là Minh Lang. Lớn lên Minh Lang có tài bắn cung trăm phát trăm trúng nên được vua quan trong triều vô cùng yêu quý, ban cho chàng là Xạ Thần Quốc Lang. Chàng thường xuyên lui về quê mẹ cứu giúp người bệnh, người nghèo. Từ đó trang canh Trầm được mở mang phát triển thành một nơi trù phú, đông vui bên bờ sông Đuống. Thấy ân tình của Xạ Thần với bản trang sâu nặng, nhà vua phong ấp cho chàng ở quê hương mẹ.
Thời gian đó Thục Chúa lăm le xâm phạm bờ cõi nhà Hùng. Xạ Thần cùng với Tản Viên Sơn Thánh nghênh chiến với quân Thục. Xạ thần giữ vững vùng Châu Mộc, đánh tan quân Thục, trở về trang mở tiệc khao binh lính và dân làng. Trên đường trở về phủ nội, bỗng nhiên trời đất tối sầm, Xạ Thần đột ngột trở về trời. Vua vô cùng thương tiếc phong tặng danh hiệu Xạ Thần Quốc Lang Cao Minh Sơn Đại Vương. Dân làng thương tiếc lập đền thờ, tôn làm thành hoàng làng thờ tại đình, lại thờ bà Phi Vân, mẹ của Ngài và lập đền thờ riêng (đền Mẫu).
Trong thời gian điền dã tôi còn được nghe một cụ ông và một cụ bà giải thích sự ra đời của tên hiệu “Phi Vân”, nghĩa là mây bay. Vì khi Thánh Mẫu, lúc sinh và lúc nhỏ khi đi cắt cỏ thường có đám mây ngũ sắc bao phủ. Tôi bỗng nhớ đến mô típ cô thôn nữ vừa cắt cỏ vừa ca hát: “Tay cầm bán nguyệt xênh xang/ Muôn vàn ngọn cỏ lay hàng tay ta”. Cô thôn nữ sinh ra Xạ Thần Lang cũng giống như bao cô thôn nữ mà dân gian tương truyền rằng vua Lê Thánh Tông, cũng như một số giai thoại của một số vị vua, chúa khác sau này đón về làm hoàng hậu, làm phi. Cách Canh Trầm không xa, ở Mía vào thời Lê-Trịnh, cô thôn nữ Nguyễn Thị Ngọc Dong đi cắt cỏ, cầm chiếc liềm cong như vầng trăng khuyết, cất lời hát ngân nga. Chúa Trịnh Tráng đi trên đường, bất chợt nghe thấy, liền bảo: “Người này sẽ lay chuyển tình thế đây!” nên xuống ngựa gặp và đem lòng sủng ái cô gái Mía xinh đẹp đất Đường Lâm…
Trong lễ hội có diễn ra lễ rước nước ngày khai hội. Khi mặt trời mới mọc, đoàn người đi rước nước đã khởi hành từ đình Canh Trầm ra bến sông. Dẫn đầu là đội múa lân, bà Thanh đề, những người mang cờ hội ngũ sắc. Kế tiếp là phường bát âm, gồm: Đàn, sáo, nhị, cồng chiêng, thanh la và cả một dàn trống. Dân gian gọi chung là phường bát âm cử nhạc réo rắt các làn điệu: Kim tiền, lưu thuỷ, xuân phong... Tất cả rộn ràng, âm vang sôi động một vùng.
Hai cỗ kiệu long đình và bát cống đi đầu do những thanh niên khoẻ mạnh khiêng. Trang phục của họ: áo đỏ, vàng, cổ áo viền xanh. Đoàn rước trong trang phục chỉnh tề theo nghi lễ truyền thống. Các cụ mặc áo dài đỏ, đầu đội mũ cánh chuồn, chân đi hài. Đội tế nam mặc trang phục áo dài màu xanh, chân đi hài, đầu đội mũ quan. Đội tế nữ mặc áo dài màu vàng, chân đi hài, đầu vấn khăn thể hiện sự trang nghiêm, tôn kính.
Trên một chiếc kiệu có đặt một chiếc bình sứ, ngoài phủ vải điều để đựng nước thiêng. Đi sau kiệu rước này là các vị bô lão, quan khách, đại biểu các đoàn thể, dân làng địa phương. Tiếp đến là cỗ kiệu bát cống có hương án, tán vàng lọng tía. Hai bên cờ quạt hương nến, phẩm quả, nghiêm trang, chỉnh tề, náo nhiệt từ làng tới đê.
Khi đoàn rước ra tới bến sông, bình sứ được đưa xuống thuyền trước tiên. Sau đó là rồng vàng đưa xuống tiếp theo. Trống chiêng gióng lên từng hồi, âm vang thúc giục. Con rồng vàng được giương cao uy phong trên sóng nước. Ba chiếc thuyền lướt ngược lên phía trên, ra giữa dòng (gần như tất cả các lễ hội lấy nước ở sông tôi được tham dự, đều phải ra giữa dòng. Theo quan niệm dân gian, có lẽ ở đó mới là nước sạch, nước tụ đủ khí âm dương).
Vị chủ lễ trịnh trọng đọc bản sớ trình xin rước nước. Sau đó vị chủ lễ cùng các bô lão đốt hoá bản sớ trình, thả xuống dòng sông. Những cô gái vận áo dài đỏ, xưa kia là áo tứ thân nhẹ nhàng múc nước dưới sông đổ vào bình sứ để đưa lên kiệu rước trở về đình trước khi làm lễ dâng hương. Sau đó đoàn rước nước trở về theo thứ tự như lúc khởi hành.
Các cụ cho biết thường có lệ các thôn nữ ra sông lấy nước thiêng về đình (ở một số nơi là các vị bô lão, ở Phù Đổng là cơ binh). Có lẽ vì các thôn nữ nông thôn xưa nay vốn chăm chỉ sớm khuya việc tầm tang, đảm đang một nắng hai sương cấy hái vun trồng nên bao đời nay được ưu ái trong lễ múc nước. Cũng có lẽ theo quan niệm xưa, phụ nữ nói chung là biểu hiện của âm trong thuyết âm dương cổ. Giống như câu ca “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Đó là lẽ trời, lẽ đời, là đạo lý.
Lễ rước nước là một lễ thức ở nhiều lễ hội cổ truyền ở đồng bằng sông Hồng, ở cả nước, ở khu vực Đông Nam Á và phổ biến ở những lễ hội dọc các bờ sông trên cơ sở nền kinh tế, nền văn minh nông nghiệp lúa nước. Qua bao phen bể dâu biến cải, lễ thức này vẫn còn “ảnh xạ” lại trong lễ hội Canh Trầm, là sự biểu hiện sinh hoạt văn hoá - tâm linh sống động, đặc sắc không chỉ của người dân Canh Trầm mà còn là mẫu số chung trong các lễ hội của cộng đồng cư dân nông nghiệp ở nhiều nơi.
Tôi cho rằng nghi thức “múc nước” và “rước nước” ở Canh Trầm nguyên thủy là nghi lễ nông nghiệp, giống như tết Pi May của Lào, tết Timây của Cămpuchia gắn liền với nghi thức té nước. Đó là tín ngưỡng cầu mưa. Mưa trong tháng Ba và đầu tháng Tư là mở đầu cho một mùa vụ, là “tết mưa giông”. Còn tết cơm mới, xôi mới tháng Mười là tết kết thúc mùa vụ. (Các nhà khoa học nông nghiệp đã chứng minh lúa mùa cổ xưa nhất của cư dân Việt là trồng vào đầu mùa mưa: Tháng Tư cày vỡ ruộng ra, Tháng Năm gieo mạ chan hòa nơi nơi).
Về căn bản, lễ hội Canh Trầm là nhằm tôn vinh người anh hùng huyền thoại Xạ Thần Lang, người anh hùng có công giữ gìn bờ cõi Hùng triều. Hội Canh Trầm từ một tín ngưỡng về nghi lễ nông nghiệp cổ truyền cầu mưa, với thời gian lịch sử đắp đổi, đã trở thành một tín ngưỡng thờ người anh hùng bảo vệ bờ cõi, có công xây dựng, mở mang làng xóm, biểu hiện lòng tri ân “mẹ con” thần thành hoàng làng qua nghi lễ rước nước. Nghi lễ múc nước, rước nước cũng là biểu hiện mong ước mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, dân làng có cuộc sống ấm no hạnh phúc. Theo tôi, lễ hội làng Xuân Trạch có giá trị lịch sử sâu sắc bởi nó hướng về cội nguồn, chứa đựng những minh chứng về một thời kỳ lịch sử của dân tộc, đồng thời là môi trường bảo tồn, giáo dục và lưu truyền văn hoá truyền thống, là biểu tượng của sự đoàn kết cộng đồng và biểu dương sức mạnh tập thể của nhân dân, đồng thời nhắc nhở con cháu về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ghi khắc công ơn những người có công với dân, với làng, với nước.
Từ khoảng 8h 30 tôi ngồi theo dõi ba tuần tế ở ngôi đình làng, một ngôi đình cổ bề thế. Trên ban thờ có bức hoành phi với 3 chữ Hán “Thánh vị tiền”. Ở hậu cung trên Thần vị của Ngài có bức đại tự “Cao Sơn Tướng Quốc”. Anh Tính cho tôi biết, năm nay vì dịch Covid-19, thực hiện theo lệnh của chính quyền không tổ chức hội, nhưng chính quyền vẫn cho phép thực hiện nghi thức tế lễ. Tôi thấy có khoảng ba, bốn chục người cùng với các cụ, các ban ngành, đoàn thể tập trung trong đình. Đông đảo dân làng bắt đầu mang đồ lễ đến bái vọng để ở tảo mạc. Ai nấy đều kính cẩn, thành kính hành lễ theo nghi lễ bốn lạy (bốn lạy là tượng trưng cho bốn phương, tứ tượng, bao gồm cõi âm cõi dương mà hồn ở trên trời, phách vía ở dưới đất).
Mặc dầu đã giản lược nhưng tôi thấy việc tổ chức tế lễ vẫn trọng thể với nhiều cờ xí, với ban nhạc lễ năm người, với đầy đủ phẩm phục, phẩm vật tế lễ Tam sinh. Thành phần tế lễ bao gồm:
- Chủ tế (ông từ): Chủ trì nghi lễ.
- Bồi tế: Hai người phụ giúp chủ tế.
- Đông Xướng và Tây Xướng: Hai người đứng hai bên hương án đọc nghi thức hành lễ .
- Nội tán: Hai người hướng dẫn chủ tế ra vào, trợ giúp Đông Xướng và Tây Xướng.
- Chấp sự: Hai người đứng hai bên giúp dâng hương, dâng rượu, chuyển chúc văn , đọc chúc văn.
- Đồng văn: Người lo việc đánh chiêng trống.
Nghi thức tế lễ bao gồm các bước: 1. Nghênh thần (chủ tế lễ bốn lễ, như đã giải thích ở trên), 2. Hiến lễ: Dâng lễ 3 lần, quỳ lễ và đọc văn tế (ba tuần tế). 3. Âm phúc và thu tộ: chủ tế nhận lộc thần linh ban. 5. Lễ tạ: Chủ tế lễ bốn vái.
Theo dõi xong 3 tuần tế tôi sang đền mẫu (thờ mẫu là một hình thức tín ngưỡng đặc trưng của cư dân nông nghiệp biểu hiện sự kính trọng với quyền năng sinh sản và công ơn với người mẹ). Đền mẫu thờ bà “Phi Vân” giống như bao đền thờ mẫu khác, phía trước có nguồn nước. Ở Canh Trầm là hồ bán nguyệt. Bên trong đền bài trí nhiều mũ nón quai thao, hài và đồ dùng đặc trưng của phụ nữ. Không gian có ba tầng thờ. Bên trên cùng là thờ đôi thanh xà, bạch xà (đôi rắn xanh và rắn trắng trên sát bờ nóc. Đây là lớp văn hóa có từ thời nguyên thủy). Phía dưới đất là ban thờ ngũ hổ hay còn gọi là ông ba mươi (ban thờ này cũng thuộc về lớp văn hóa nguyên thủy). Ở chính giữa, gian giữa là ban thờ vua cha Ngọc Hoàng, Ngũ vị tôn ông. Gian bên trái (từ đền nhìn ra) là ban Sơn Trang (thờ bà chúa Sơn Trang; theo cá nhân tôi thuộc về lớp văn hóa khác dung hợp vào đền thờ mẫu Tam/Tứ phủ). Gian bên phải (từ đền nhìn ra là ban thờ đức Thánh Trần; Xin xem bài Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần cũng trong trang Facebook này để hiểu thêm về một tín ngưỡng đặc trưng riêng của người Việt).
Hậu cung là Tam tòa Thánh Mẫu: Đệ nhất Mẫu Thiên, áo đỏ; Đệ nhị Mẫu Thượng ngàn, áo xanh; Đệ tam Mẫu thoải (thủy), áo trắng. Ba mẫu cai quản ba phủ/vùng (xin xem bài Một buổi xem hầu đồng cũng trong trang Facebook này để hiểu thêm về tín ngưỡng thờ mẫu, một di sản văn hóa nhân loại của riêng người Việt). Và điều đặc biệt nhất là tượng Mẫu Phi Vân đầy đặn phúc hậu đẹp như ngọc ngà. Mẫu ngự ở trên cao, trên cả Tam tòa thánh mẫu có Chầu Quế, Chầu Quỳnh ở hai bên. Đây là điều khác thường. Nhưng rất có lý vì trong tâm thức người Canh Trầm Mẫu còn sinh ra cả Thánh Xạ Thần Quốc Cao Minh Sơn Đại Vương, cũng giống như bà mẹ Phù đổng Thiên Vương sinh ra Thánh Gióng, không ai có thể hơn Mẫu.
Trong lúc tôi tìm hiểu suy ngẫm, bên ngoài các thiếu nữ xinh đẹp trong tà áo dài đỏ múa điệu múa sinh tiền thật đắm say, duyên dáng. Sau điệu điệu múa sinh tiền là màn múa quạt của các mẹ, các bà vận áo vàng rực, xập xòe trong tiếng hát chầu, tiếng đàn sáo nhị hòa quyện đến nao lòng. Bởi người dân quan niệm phải hát thật hay, thật ngọt. Phải múa thật đẹp, thật dẻo thì các mẫu mới giáng. Dân làng mới thịnh vượng, phát đạt. Đúng là một màn diễn xướng nghệ thuật tổng hợp. Một nét đẹp rất văn hóa. Tôi không bao giờ nghĩ quan niệm đó là quan niệm mê tín.
Anh Tính cho tôi biết, tất cả đều là của dân, do dân và vì dân. Họ tự nguyện đóng góp, cung tiến. Có người cung tiến đến vài chục triệu đồng. Anh Tính còn cho tôi biết nếu không có Covid còn có thể thao, bóng chuyền. Tối đến là văn nghệ của các cháu, của đoàn thanh niên, của hội phụ nữ, hội cựu chiến binh... Đúng là ngày hội của tất cả các tầng lớp trong làng.
Chiều ra về, vẫn trong lúc xúc cảm thẩm mỹ dâng trào, tôi có nói với anh Tính, một giá trị của lễ hội truyền thống là ở tính tự quản, tinh thần dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Lễ hội truyền thống của Canh Trầm, cũng như ở các địa phương khác là của dân, do dân và quay trở lại phục vụ nhu cầu đời sống văn hóa, tín ngưỡng của dân. Anh ở trong ban tổ chức, không biết anh có đề cập vấn đề tổ chức lễ hội làng là một tiêu chí của nông thôn mới không?
Tien Nguyen, Thành Vũ và 81 người khác
33 bình luận
3 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.