Kỷ niệm 55 năm Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân và 50 năm ký kết Hiệp định Paris

Leave a Comment

 

Sau khi Hội cựu chiến binh Quân khu Trị Thiên Kỷ niệm 55 cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và 50 năm ký kết Hiệp định Paris, một số tướng lĩnh và đồng đội có ướm lời tôi viết một bài về hai sự kiện này để trình bày trong hội nghị tiếp theo. Tôi nhận lời vì đã viết bài cách đây 5 năm. Chỉ có điều là viết thế nào để khỏi lặp lại những vấn đề, những kết luận mà nhiều học giả và tướng lĩnh đã trình bày trong kỷ yếu hội thảo. Tôi suy nghĩ và hoàn thành một ngày sau đó. Được Ban tổ chức và Thiếu tướng Lê Huy Mai chấp thuận đưa vào chương trình, nhưng rất tiếc hội nghị không còn thời gian nên tôi không đọc bài viết của mình và một bài viết nữa của Đại tá Hồ Hữu Lạn. Xin được chia sẻ với anh em, đồng đội, bạn bè.

Cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 và Hội nghị Paris

 Kính thưa các vị đại biểu!

 Kính thưa Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh và các vị tướng lĩnh, các sỹ quan!

 Thưa các anh em đồng đội!

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 của Quân và Dân ta đã bước sang năm thứ 55 và cũng là mốc 50 năm Hiệp định Paris được ký kết. Đây là hai sự kiện mang tầm vóc lịch sử của dân tộc, của thời đại gắn liền với lịch sử Sư đoàn 324.

 Đã có một cuộc hội thảo của Bộ Quốc phòng tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó có sự tham gia của rất nhiều nhà chiến lược quân sự, các học viện, các trường đại học, các học giả, những người nghiên cứu lịch sử, các sỹ quan cao cấp trực tiếp tham gia chỉ huy những trận đánh trong cả 3 đợt của chiến dịch này nên tôi không nhắc lại những nội dung cơ bản đã được các tác giả nêu ra. Phía bên kia chiến tuyến cũng có không ít những bài viết về hai sự kiện lịch sử trọng đại này. Thời gian đã lùi xa hơn nửa thế kỷ. Chúng ta có đủ điều kiện khách quan để đưa ra những đánh giá tổng kết chân thực, đa chiều, đúng với tầm vóc chiến lược và giá trị của hai cột mốc chói lọi này.

 Đọc một số bài viết, nhất là một số bài viết của các học giả và tướng lĩnh bên kia chiến tuyến, cũng như về một số ý kiến ngoài nghị trường của một số anh em chúng ta, tôi thấy cần làm sáng tỏ một vài khía cạnh. Trước hết, dường như có một số người thuộc chế độ ngụy quyền Sài Gòn không những không thấy được sự thất bại chiến lược, không thừa nhận sự thất bại về chiến lược mà còn đổ lỗi thất bại mùa xuân 1968 cho chính giới Mỹ, truyền thông Mỹ, người dân Mỹ và thậm chí còn quy lỗi cho “cái ý chí sắt đá của Cộng sản”. Sau đó họ ngộ nhận là “những người nắm ưu thế, những người chiến thắng về quân sự nhưng lại là nạn nhân của sự thất bại về chính trị”. Và rất tiếc trong số chúng ta cũng có những người nghĩ như vậy.

 Theo số liệu thống kê của chúng ta, trong năm 1968 quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 630.000 quân Mỹ, quân Ngụy Sài Gòn và quân các nước Australia, Hàn Quốc, Philippines, Thái Lan cùng với một số lượng khổng lồ vũ khí, khí tài, phương tiện chiến tranh (tôi nghĩ số liệu này hơi quá với thực tế). Còn theo thống kê của người Mỹ thì chúng ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 310.000 quân Mỹ ngụy và chư hầu. Tổn hại của phía “Việt cộng” là 113.000 quân, tức là tổn hại về quân số của Mỹ ngụy gần “gấp ba lần Việt Cộng”. Người Mỹ đã thừa nhận hoàn toàn bất ngờ trước cuộc tổng tiến công, lung túng bị động đối phó ở tất cả các chiến trường. Thiệt hại về người và phương tiện chiến tranh là quá lớn. Vậy thì cái ưu thế và thắng lợi về quân sự của Chính quyền Sài Gòn nằm ở chỗ nào?

 Trong chiến tranh, số lượng binh lính mất mát trong một chiến dịch chỉ là một khía cạnh. Cái ý nghĩa quan trọng nhất của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân ta là đã đánh vào 45 thành phố, thị xã trên khắp miền Nam, trong đó có Sài Gòn, đầu não chính trị, quân sự, kinh tế của Mỹ- ngụy. Nó thể hiện sức mạnh, thế chủ động của đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta. Quân và dân ta đã làm nên một cơn địa chấn làm rung chuyển nước Mỹ, đập tan ý chí xâm lược của chính quyền Mỹ, buộc chính quyền Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, ngồi xuống bàn đàm phán ở Paris.

 Đúng như nguyên Viện trưởng Viện Sử học Đinh Quang Hải đã viết trong Kỷ yếu 50 cuộc Tống tiến công và  nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968: “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đã gây ra cho đế quốc Mỹ một đòn "choáng váng đột ngột", làm đảo lộn thế bố trí, phá vỡ kế hoạch tác chiến dự định của chúng; làm rung chuyển không những toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam mà còn làm rung chuyển cả Lầu Năm Góc cũng như toàn nước Mỹ. Với ý nghĩa to lớn đó, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 là một sự kiện lịch sử quan trọng và để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình lịch sử Việt Nam”.

 Với thắng lợi Xuân Mậu Thân năm 1968, quân và dân ta đã tạo ra một bước ngoặt quyết định, làm cho quốc hội và người dân Mỹ hoàn toàn mất niềm tin vào chính quyền Mỹ. Hàng triệu người dân, hàng vạn sinh viên hàng trăm trường đại học Mỹ đã xuống đường biểu tình phản đối chiến tranh, đòi chính quyền rút quân về nước. Trước sức ép dư luận quốc tế và ở trong nước, Chính quyền Mỹ buộc phải tính đến việc rút quân khỏi cuộc chiến, đúng như tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.

 Những kết luận trên không chỉ được rút ra từ phía chúng ta mà còn rút ra từ khối tài liệu khổng lồ của chính nước Mỹ, trong đó có hồi ký và tự thuật của Tổng thống Lyndon B. Johnson (người phải từ bỏ cuộc đua vào Nhà Trắng nhiệm kỳ 2 năm 1968 vì cuộc chiến ở Việt Nam), Tổng thống Richard Nixon (người trúng cử tổng thống Mỹ cuối năm 1968 với lời hứa rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam trong danh dự), Henry Kissinger (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Mỹ đương thời), Robert Mc Namara (Bộ trưởng Bộ quốc phòng Mỹ đương thời)…

  Cán bộ và chiến sỹ chúng ta trong thời gian đó đều biết sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta gặp nhiều khó khăn như vùng kiểm soát bị thu hẹp đáng kể, lực lượng nằm vùng bị đánh bật ra khỏi các nội đô, lực lượng quân chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích nhiều nơi bị suy yếu, các tổ chức chính trị, hoạt động ngầm ở tất cả các địa phương bị lộ… Chính vì vậy một số người, kể cả một số sỹ quan và chiến sỹ cho rằng, chúng ta thắng lợi về chiến lược nhưng thất bại về chiến thuật.

Tôi không đồng ý với quan điểm này. Chiến lược quân sự là phương thức để giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh. Có thể hiểu chiến lược là chương trình hành động, kế hoạch hành động đề ra để đạt được mục tiêu, là tổ hợp các mục tiêu dài hạn và các biện pháp, cách thức, con đường để thực hiện các mục tiêu. Còn chiến thuật thường đề cập đến việc tiến hành một trận đánh, trong khi chiến lược đề cập đến việc liên kết các trận đánh với nhau để đi đến mục tiêu quân sự cuối cùng.

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đạt được thắng lợi cả về mặt chính trị, lẫn quân sự, cả về chiến lược lẫn chiến thuật. Nó được thể hiện rõ nét nhất ở số liệu người Mỹ đưa ra: 310.000 binh lính liên quân Mỹ ngụy bị loại khỏi vòng chiến đấu, 13.000 xe cơ giới, 1000 tàu chiến, 700 kho đạn, 15.000 đồn bốt, hàng trăm máy bay… Nghĩa là một phần tư quân lực bị loại khỏi vòng chiến đấu cùng nhiều tỷ đô la vũ khí, khí tài, phương tiện chiến tranh. Tại sao lại nói chúng ta thất bại về chiến thuật.

 Chúng ta phải đặt cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong bối cảnh lịch sử chiến lược chiến tranh cục bộ của đế quốc Mỹ sau hai cuộc phản công tìm diệt mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 đầy ác liệt. Ở thời điểm đó chúng ta gặp không ít khó khăn. Lực lượng của chúng ta bị tổn thất và suy yếu. Nếu không có cuộc Tổng tiến công và nổi dậy thì chắc chắn sẽ có cuộc phản công tìm diệt mùa khô vào năm 1967-1968, cộng với gọng kìm bình định thâm độc. Liệu tình hình chúng ta khi ấy sẽ như thế nào? Theo kịch bản đó chúng ta hoàn toàn bị động. Tổn thất chắc chắn sẽ rất lớn.

 Chúng ta cũng phải đặt cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trong bối cảnh quốc tế. Nếu không có cuộc tổng tiến công và nổi dậy, cuộc bầu cử tổng thống Mỹ diễn ra bình thường, Johnson hay Nixon trúng cử tổng thống không có cam kết rút quân khỏi miền Nam thì tình hình sẽ như thế nào? Vào thời điểm đó phe xã hội chủ nghĩa đã có sự phân hóa. Trung Quốc cố lôi kéo chúng ta đi theo họ và có dấu hiệu bắt tay với Mỹ chống Liên Xô. Họ sẵn sàng hy sinh quyền lợi của chúng ta, cắt viện trợ để đổi lại việc Mỹ cho họ ngồi vào chiếc ghế thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

 Nếu không có cuộc Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968, tình thế đối với chúng ta sẽ thật nguy hiểm. Tình hình trong nước và quốc tế rất khó lường. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của chúng ta có thể gặp khó khăn và còn có thể kéo dài vì lợi ích nước lớn. Thậm chí kịch bản đất nước chúng ta có thể đi theo vết xe của Đông Đức-Tây Đức hay như Nam-Bắc Triều Tiên bây giờ.

 Đúng là sau Tổng tấn công và nổi dậy chúng ta gặp nhiều khó khăn trong một thời gian. Chúng ta phải thấy  những khiếm khuyết trong kế hoạch và khiếm khuyết trong sự chỉ đạo chiến dịch. Số lượng cán bộ chiến sỹ hy sinh quá lớn. Ở Thừa Thiên- Huế, riêng ở K8, Đoàn Cửu long, trước khi vào Tây Nguyên đã có tới hơn 400 cán bộ chiến sỹ hy sinh tại làng Phước Yên - Quảng Thọ. Trung đoàn 29 Sông Lô có tới 748 cán bộ chiến sỹ thương vong…

 Thực tế chiến trường đã cho thấy thời gian sẽ giúp chúng ta phục hồi và vươn lên nhanh. Chúng ta đã phục hồi và lớn mạnh hơn vào đầu năm 1971. Riêng Sư đoàn 324 ở chiến trường Trị Thiên đã phục hồi chỉ sau một năm. Tháng 5/1969 Trung đoàn thiệt hại nặng nề nhất trong năm 1968, Trung đoàn 3 đã đánh bại Lữ đoàn Dù trên Đồi Bia làm nên một trận đánh trong lòng nước Mỹ, đánh bại chiến lược kiểm soát vùng rừng núi Thừa Thiên của Mỹ ngụy. Tháng 7 năm 1970 Trung đoàn 1 và các đơn vị bạn đã buộc Lữ đoàn Dù số 3 phải tháo chạy khỏi cao điểm 935, nối liền thể ba vùng chiến lược. Và lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, lần đầu tiên quân đội Mỹ phải rút chạy khỏi chiến trường để “không trở thành một trận Điện Biên Phủ của người Mỹ”… Thế nhưng thời gian sẽ không lặp lại thời cơ nếu Đảng ta và Quân ủy Trung ương bỏ mất thời cơ đầu năm 1968.

 Trong chiến tranh có kế hoạch nào là hoàn hảo 100%? Kế hoạch Tổng tiến công và nổi dậy cũng vậy. Giá như các cấp từ Quân ủy Trung ương tới cơ sở đánh giá tình hình sát hơn, linh hoạt hơn, không dàn trải, tập trung vào những mục tiêu chính, chuẩn bị tốt hơn công tác hậu cần, chuẩn bị phương án chủ động rút lui bảo toàn lực lượng thì sẽ giảm bớt được xương máu của cán bộ chiến sỹ. Hội nghị Paris cũng vì thế không kéo dài đến như vậy.

 Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy khởi nguồn dẫn đến Hội nghị Pari. Và chính Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy cũng quyết định thời gian đàm phán của hội nghị. Chúng ta gần như tập trung sức  lực cho chiến dịch, tổn thất sinh lực và vật lực lớn nên gặp nhiều khó khăn trong một thời gian. Cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị ngoại giao cũng vì thế mà kéo dài. Kéo dài đến nỗi báo chí phương Tây gọi đó là “Hội nghị của những kẻ điếc”.

 Có thể nói Hội nghị Paris là cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn nhất trong lịch sử ngoại giao thế giới. Thời gian kể từ lúc bắt đầu ngày 15 tháng 3 năm 1968 đến khi kết thúc ngày 27 tháng 1 năm 1973 là 4 năm 8 tháng 14 ngày với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc gặp riêng. Thời gian kéo dài vì lực lượng của chúng ta không chiếm ưu thế trên chiến trường, về cơ bản là chống và đỡ.

 Đảng ta chủ trương đấu tranh ngoại giao là một mặt trận quan trọng, vừa đánh vừa đàm. Nhưng vẫn xác định thắng lợi trên chiến trường mới là quyết định cuối cùng. Đến cuối năm 1970 chúng ta đã phục hồi và lớn mạnh, nắm thế chủ động trên chiến trường. Nếu chúng ta không có chiến thắng Đường 9 Nam Lào năm 1971, không có chiên thắng Xuân-Hè năm 1972, Chiến thắng Điện Biên Phủ trên không thì chắc chắn không có ngày 27 tháng 1 năm 1973.

 Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học Viện Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa lịch sử to lớn của Hiệp định Paris đối với tiến trình cách mạng Việt Nam: “Hiệp định Paris là tổng hòa thắng lợi quân sự, chính trị và ngoại giao, buộc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút hết quân, tạo cục diện mới để đi đến thắng lợi cuối cùng. Từ điểm tựa chiến lược của Hiệp định Paris, quân và dân ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”.

 Chúng ta rất tự hào là những người lính Sư đoàn 324, những người lính Quân đoàn 2, những đơn vị đã tiến công vào thành phố Huế, ngoại ô Huế, một điểm sáng trong toàn bộ chiến dịch, giữ vững thành phố Huế trong 25 ngày đêm, kìm giữ quân địch để cho các đơn vị bạn rút lên vùng rừng núi, góp phần vào thắng lợi chung. Chúng ta cũng tự hào là một trong những đơn vị hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong Chiến dịch Đường 9- Nam Lào. Chúng ta cũng tự hào đã góp phần xứng đáng trong Chiến dịch mùa hè lửa ở Quảng trị. Chúng ta đã đập tan âm mưu lấn chiếm, giành dân của ngụy quyền Sài Gòn trước khi ký kết Hiệp địn Pari, để lại những dấu ấn không phai mờ, góp phần làm nên chiến công chung của toàn quân và toàn dân trong chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân 1968, góp phần buộc địch ngồi vào bàn hội nghị và tiến tới ký kết Hiệp định Pari.

 Nhân dịp kỷ niệm 55 năm cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân năm 1968 và 50 năm ký kết Hiệp định Paris, chúng tôi xin chúc tất cả các vị đại biểu, các vị tướng lĩnh, anh em đồng đội mạnh khỏe, bình an, nhiều niềm vui!

 Xin trân trọng cảm ơn!

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.