Bắc Ninh là một trong
những tỉnh tôi yêu quý nhất. Có rất nhiều lý do nuôi dưỡng nguồn tình cảm đẹp đẽ
này.
Lần lại quá khứ, phải
bắt đầu từ ngày tôi được gọi vào học sư phạm. Lúc đó, tôi mới biết đến miền đất
Bắc Ninh- Kinh Bắc. Tôi được học, qua thầy cô, qua bạn bè về xứ Bắc từ cái thủa
bình minh của dân tộc Việt. Nơi ấy đã trở thành điểm hẹn “ đan xen, hội nhập,
tiếp biến, giao thoa văn hóa” của hai tộc
Việt: Âu Việt và Lạc Việt, rồi trong tiến trình lịch sử là Việt- Hoa, Việt- Ấn.
Có thể nói Kinh Bắc là cái nôi văn hình thành nên nền văn hóa Đại Việt.
Dần dần tôi hiểu sâu
hơn, Kinh Bắc còn là xứ sở của văn hóa Phật giáo với hàng trăm ngôi chùa nổi tiếng (Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài). Kinh Bắc còn là xứ sở của văn hóa Nho giáo với
hàng trăm Trạng - Nghè - Cống , tiêu biểu là
Lê Văn Thịnh, người làng Đông Cửu, có thể gọi là trạng nguyên khai hoa đỗ
đầu kỳ thi năm1075 trong khoa thi đầu tiên của triều Lý. Kinh Bắc còn là xứ sở
của lễ hội đình đám; quê hương của những bức tranh dân gian nổi tiếng Đông Hồ;
quê hương của những làn điệu dân ca trữ tình tuyệt đỉnh đã trở thành di sản văn
hóa phi vật thể của nhân loại; quê hương của trăm nghề công, nông, thương và một
mạng lưới chợ quê dày đặc, sản sinh ra những làng nghề, làng buôn để bước chân
người xứ Bắc in dấu khắp mọi miền đất nước.
Nhưng thế vẫn chưa đủ
để lý giải Kinh Bắc đã đi vào lòng tôi như một người tình say đắm. Cái chất của
người Kinh Bắc không chỉ khai sinh ra một triều đại Lý nổi tiếng mở đầu cho nền
độc lập của chế độ phong kiến Việt Nam, mà còn sinh ra rất nhiều những anh
hùng, tài tử, giai nhân mà tên tuổi của họ mãi mãi lưu truyền cùng với lịch sử
dân tộc. Ở cái tầm “vĩ mô” thì như vậy, còn ở cái tầm” vi mô” thì có lẽ ở cái mảnh
đất này tôi có nhiều bạn bè nhất, bạn bè sư phạm, bạn bè quân ngũ, bạn đồng
nghiệp, bạn bè làm ăn. Họ là những người con trai tài hoa, đa tình, rộng mở. Họ
là những người con gái đằm thắm, duyên dáng, ý nhị( Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái
Nội Duệ Cầu Lim).
Phải nói thêm rằng tôi
đã đến với mảnh đất Bắc Ninh hàng trăm lần. Công việc to nhỏ của gia đình bạn
bè. Công việc làm ăn. Công tác giảng dạy. Đưa đón đồng nhiệp, bạn bè, học sinh
tham quan nhiều địa chỉ như Luy Lâu, Long Biên, Phật Tích, chùa Dâu, Chùa Tiêu,
đền Lý bát Đế, Bút Tháp…
Và bây giờ thêm một lý
do nữa để tôi mê Bắc Ninh hơn, trong chuyến trở về Thượng Đức, Đại Lộc, Quảng
Nam tôi được gặp anh Phúc, Nguyễn Văn Phúc sinh ngày 25 tháng 12 năm 1949 tại
thành phố Bắc Ninh. Anh nhập ngũ ngày 22 tháng 7 năm 1967. Đi B chiến đấu ở mặt
trân B5 thuộc Trung đoàn 3 Sư 324.
Thật là lạ, suốt trong
thời gian ở chiến trường, thời gian sinh hoạt hội cựu chiến binh sư đoàn, trung
đoàn và bao lần trở lại thăm lại chiến trường xưa, tôi chưa một lần gặp anh. Lần
thì anh mắc việc, lần thì tôi bận. Và có lẽ với rất nhiều đồng đội khác cũng vậy.
Thế mới biết gặp nhau, quen biết nhau là một cái duyên trong đời.
So với lớp chúng tôi
nhập ngũ năm 1971, 1972, anh Phúc thuộc
thế hệ đàn anh, cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề Lính bộ binh. Là lính bộ binh từ
năm 1967, anh từng trải qua hàng chục trận
đánh cấp chiến dịch, hàng chục trận đánh cấp địa phương, còn cấp trung đội và
tiểu đội thì như cơm bữa. Ở trung đoàn 3 của tôi, chỉ có khoảng dăm chục người
lính dày dạn trận mạc như anh mà vẫn còn
nguyên vẹn. Nhiều anh em trong đơn vị thường đùa “ Cái loại người này có cho
vào cối giã cũng không chết”. Hình như bom đạn nó tránh hay nó chừa các anh thì
phải. Nói như vậy thật không ngoa, vì Sư đoàn 324 của tôi trong thời kỳ chống Mỹ
cứu nước có tới trên 12000 người lính đã để lại tuổi thanh xuân của mình trên
các chiến trường. Và đương nhiên là gấp đôi , gấp ba con số đó bị mất sức vĩnh
viễn, bị thương tật, đến nay rất nhiều người đã ra đi. Cũng vì vậy, chúng tôi rất
quý trọng anh.
Trước tiên, chúng tôi
phải cảm ơn tỉnh Quảng Nam, huyện đại Lộc đã mời chúng tôi, các cựu chiến binh,
những người đã từng tham gia chiến dịch Nông Sơn- Thượng Đức, thuộc ba sư đoàn
và các đơn vị phối thuộc về dự Lễ Khánh thành Đài tưởng niệm chiến thắng Thương
Đức và kỷ niện 40 năm chiến thắng Thượng Đức. Chính vì thế, nhiều người trong
chúng tôi mới có duyên gặp nhau sau 40 năm xa cách.
Chiến dịch Nông Sơn-
Thượng Đức là một chiến dịch những người lính năm xưa thuộc Sư đoàn 304 và
trung đoàn 3 Sư 324 mãi mãi còn khắc sâu trong tâm trí. Một ngàn chiến sĩ sư
đoàn 304, 324 chiến sĩ Trung đoàn 3 Sư 324 và hàng trăm chiến sĩ ở các đơn vị phối thuộc
khác đã nằm xuống trong chiến dịch này. Mảnh đất Thượng Đức, Bàn Tân , Hà Nha,
Hà Sống, gò Ôm, điểm cao 1062, bình độ 700… còn thấm biết bao máu của lớp lớp
đàn anh trong những trận đánh trước nữa. Người anh cùng làng của tôi là Giang
Xuân Sách cũng gửi tấm than của mình ở nghĩa trang Đại Lộc. Chúng tôi mãi mãi
khắc sâu trong tâm trí vì chiến dịch này đã đập tan hệ thống phòng thủ mạnh nhất
miền Trung, mở toang cánh cửa thép xuống Đà Nẵng. Chiến dịch này đã làm thay đổi
so sánh lực lượng giữa lực lượng chủ lực cơ động của ta và của địch. Dù chính quyền
Việt Nam cộng hòa đã tung sư đoàn dù, lực lượng tổng dự bị, sư đoàn thiên thần
mũ đỏ sát cộng vào trận để tái chiếm Thượng Đức, cuối cùng vẫn sa lầy và thất bại.
Từ thực tế chiến dịch này, Bộ chính trị, Quân ủy Trung ương đã có quyết sách
đúng đắn cho chiến dịch Tây Nguyên, tiến tới giải phóng hoàn toàn Miền Nam mấy
tháng sau đó.
Do tuổi tác, cùng với
những năm tháng gian khổ ở chiến trường, đói ăn đói mặc, sốt rét triền miên,
cũng như rất nhiều đồng đội khác, sức khỏe anh Phúc đã suy giảm, nhưng anh vẫn cố gắng cùng bốn chục
anh chị em trong đoàn Hà Nội về lại chiến trường tri ân đồng đội, thắp cho đồng
đội hy sinh năm nào một nén nhang, gặp gỡ lại những đồng đội ở xa, những chỉ
huy, thủ trưởng hiện thời là tướng ,tá mà có lẽ lần gặp này là lần gặp cuối.
Nhiều người đã 70, 80 tuổi rồi. Cái tình
của anh thật đáng trân trọng. Và trân trọng hơn, chị đã phải theo anh, chăm sóc
từng bữa ăn, viên thuốc, giấc ngủ… để anh có thể vượt qua chặng đường dài về với
đồng đồng chí, đồng đội nằm ở hàng chục nghĩa trang từ Quảng Bình tới Quảng
Nam.
Tôi đã đôi lần nói
chuyện với chị trong chuyến đi và nghe sơ sơ về chuyện gia đình anh chị. Thì ra
xưa kia chị học tại Khoa Sử Trường Đại học Tổng hợp, ngay cạnh nhà tôi. Chị
quen biết một số bạn bè của tôi. Và đặc biệt chúng tôi có chung những người thầy,
những nhà nghiên cứu tài năng “ Lâm, Lê, Tấn, Vượng”. Tôi biết chắc rằng anh chị
có một câu chuyện tình thời thanh xuân đẹp như trăm ngàn mối tình lãng mạn của
những người lính thời chiến vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước.
Trong chuyến đi này,
anh mang theo máy quay cá nhân. Đi đến đâu anh cũng cần mẫn đi trước về sau, chọn
cảnh chọn người ghi lại những hình ảnh, một lần nữa để chúng tôi cần nhớ về đồng
đội. Tôi và nhiều anh em khác cũng đem theo máy quay, nhưng đó chỉ là những
hình ảnh rời rạc. Còn anh, sau chuyến đi, chỉ sau vài ngày, anh đã gửi cho
chúng tôi một cuốn băng video, khi xem, tôi nghĩ cuốn băng này chỉ cần chỉnh
qua và viết lời bình thì có thể đưa lên truyền hình, khiến con tim của những
người lính già nghẹn ngào xúc động. Vậy mà anh gọi điện cho tôi “ Huệ thông cảm,
gọi là cây nhà lá vườn”. Tôi nghĩ, nếu không có chiến tranh, đi theo con đường
nghệ thuật, chắc anh sẽ trở thành một nghệ sĩ đích thực.
Tôi nói như vậy, bởi
trong chuyến đi, anh khiến chúng tôi nhớ lại những người thân yêu, đôi mắt nhòa
lệ. Đã bao lần tôi viết về đồng đội, nhưng chưa một lần tôi bằng lòng với mình.
Kể cả bài thơ Viếng bạn của Hoàng Lộc, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân và
nhiều bài thơ của những nhà thơ nổi tiếng đi vào sách giáo khoa, tôi vẫn thấy
nó thiêu thiếu cái gì đó, hình như hơi thừa chất chính trị và vắng cái gồ ghề mất
mát cá nhân.
Thật lạ, tôi lại thích
mấy bài thơ của anh, viết ngay sau khi thắp hương cho đồng đội và ngay sau khi
thăm lại Thạch Hãn, A Sầu, A Lưới, A Bia, Thanh Tân, Cổ Bi, Ba Khe, Gò Rùa, Vu
Gia… đặc biệt trong đêm viếng nghĩa trang Đại Đồng , Đại Lộc, hàng ngàn ngọn nến,
cả một rừng nến mênh mông nhấp nháy như những linh hồn mờ tỏ, đôi mắt ai nấy đều
mờ đi, tôi nghe thấy tiếng lòng anh thiết tha gọi Khuyến ơi :