Những chiến dịch của Liên quân Mỹ Ngụy trong năm 1969 tại Thung lũng A Sầu
và thảm họa với chúng trong trận đánh trên Đồi A Bia
Nguyễn Duy Huệ, cựu chiến binh Sư đoàn 324
Trong năm 1969, có 17
chiến dịch liên quân Mỹ Ngụy tiến hành ở Thừa Thiên, trong đó 8 chiến dịch diễn
ra ở Thung lũng A Sầu. Qua bảng thống kê sau ta thấy được bức tranh thu nhỏ
tình hình chiến sự Thừa Thiên trong năm 1969 và vai trò vị trí vô cùng quan trọng
của khu vực Thung lũng A Sầu trên Mặt trận Trị Thiên nói riêng và trên chiến
trường miền Nam nói chung.
Niên biểu các chiến dịch
của Liên quân Mỹ Ngụy tại Thung lũng A Sầu (Thủy quân Lục chiến- TQLC, Quân lực
Việt Nam Cộng hòa-QLVNCH, Thung lũng-TL):
Stt
|
Thời gian
|
Tên chiến dịch
|
Lực lượng tham gia
|
Địa điểm
|
1
|
22/1/ đến 18/3/1969
|
Dewey Canyon
|
Tiểu đoàn 1,2,3 TQLC số 9; Tiểu đoàn 2 TQLC số 3; Trung
đoàn 2 QLVNCH.
|
TL A Sầu
|
2
|
29/1 đến 7/2/1969
|
Sherman Peak
|
Lữ đoàn Dù 2 thuộc Sư đoàn Dù 101; Sư đoàn 1 QLVNCH
|
TL A Sầu
|
3
|
28/2 đến 8/5/1969
|
Masachusetts Striker
|
Lữ đoàn 2 thuộc Sư đoàn Dù 101
|
TL A Sầu
|
4
|
10/5 đến 7/6/1969
|
Apache Snow
(Tuyết rơi trên đỉnh núi Apat)
|
Lữ đoàn Dù 3 thuộc Sư đoàn Dù 101; Tiểu đoàn 2,4 thuộc Sư
đoàn 1 QLVNCH
|
TL A Sầu
|
5
|
6/6 đến 15/8/1969
|
Montgomery
|
Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Dù 101
|
TL A Sầu
|
6
|
14/8 đến 28/9/1969
|
Carolina Blaster
|
Lữ đoàn Dù 3 thuộc Sư đoàn Dù 101;Trung đoàn 3 QLVNCH
|
TL A Sầu
|
7
|
14/8 đến 28/9/1969
|
Richland Square
|
Lữ đoàn Dù 3 thuộc Sư đoàn Dù 101; Trung đoàn 3 QLVNCH
|
TL A Sầu
|
8
|
15/8 đến 28/9/1969
|
Louisiana Lee
|
Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Dù 101; Sư đoàn 1 QLVNCH
|
TL A Sầu
|
(Theo nguồn Category: Battles and Operation of the Vietnam
war in 1969- Wikipedia và cuốn sách The
A Shau Valor: American combat Operation in the Valley of Death 1963-1971 của Đại
tá, Giáo sư Mỹ Thomas R. Yarborough).
Với các tướng tá và
binh sỹ Mỹ thuộc ba sư đoàn: Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, Sư đoàn Kỵ binh bay,
Sư đoàn Dù 101 cũng như các tướng tá binh sỹ VNCH thuộc Vùng 1 chiến thuật trong cuộc chiến tranh ở
Việt Nam, Thung lũng A Sầu là nơi “làm đông máu” họ, là thung lũng “Tử thần”,
thung lũng “Chết”. Thung lũng A Sầu là “nỗi ám ảnh thường trực” của Đại tướng William
Wesmoreland từ tháng 7/1963 tới tháng 7/1968 khi y làm Phó Tư lệnh và Tổng Tư lệnh
Bộ chỉ huy Quân sự Mỹ ở miền Nam (sách đã dẫn).
Khi Wesmoreland rời nhiệm sở, Tướng Creighton Abram, tân Tổng
Tư lệnh Bộ chỉ huy Quân sự Mỹ ở miền Nam
vẫn rất quan tâm tới Thung lũng A Sầu. Giống như Wesmoreland, Abram coi Thung
lũng lũng A Sầu là “thánh địa tự nhiên” của đối phương với chức năng kép: Cơ sở
hậu cần, nơi nghỉ dưỡng và là nơi tổ chức các cuộc tấn công xuống đồng bằng và
các thành thị miền Trung. Đặc biệt là từ cuối năm 1968, tình báo Mỹ có một phát
hiện gây sốc Bộ chỉ huy Quân Sự Mỹ ở miền Nam, đó là việc phát hiện hệ thống đường
ống xăng dầu chạy từ thành phố Vinh, vượt qua biên giới Lào, vươn tới Thung
lũng A Sầu. Có ngày Abram nhận được tin tình báo “khoảng một nghìn xe chuyên chở
hàng hóa” ở Thung lũng A Sầu và các khu vực xung quanh. Y và bộ chỉ huy Mỹ đặt
vấn đề việc tích tụ hậu cần và cả binh lực của đối phương là vấn đề rất nghiêm
trọng ở Vùng 1 chiến thuật hay còn gọi là Quân đoàn 1 (bao gồm 5 tỉnh hiện nay:
Quảng Trị, Thừa Thiên, Đà nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi).
Theo số liệu của
Wikipedia về Đường mòn Hồ Chí Minh, Mỹ Ngụy đã huy động khoảng 733.000 lượt máy
bay đánh phá các tuyến đường Trường Sơn với gần 4 triệu tấn bom đạn. Trong số
đó có một số lượng lớn bom đạn trên ném xuống Thung lũng A Sầu. Việc Mỹ Ngụy mở
từ 2 chiến dịch trong năm 1968 đến 8 chiến dịch ở A Sầu vừa thể hiện tình hình
chiến sự ở Thừa Thiên vừa thể hiện toan tính đầy tham vọng của chúng là tìm diệt các lực lượng vũ trang của ta, phá
hủy các cơ sở hậu cần của ta, cắt đứt tuyến vận chuyển từ miền Bắc vào miền Nam
qua Trị Thiên, giành giật lại địa bàn rừng núi chiến lược mà chúng đã để mất
sau trận đánh vào Trại A Sầu tháng 3 năm 1966.
Tám chiến dịch nhằm
vào Thung lũng A Sầu đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Trung tướng Richard
Stillwell sau khi nhận chức Tư lệnh Quân đoàn 24, quân đoàn được giao nhiệm vụ
kiểm soát tất cả các đơn vị mặt đất của Quân đội Mỹ ở khu vực Vùng 1 chiến thuật,
y và bộ chỉ huy quân đoàn đã xem xét lại nguyên nhân thất bại của 2 chiến dịch
Lam Sơn 216/Delaware và Lam Sơn 246/Somerset Plain trong năm 1968. Đó là việc thiếu
một đội quân thường trực đóng cố định tại Thung lũng A Sầu. Đó là việc thiếu
quân số, hậu cần và hỏa lực. Cùng với Bộ chỉ huy Mỹ ở miền Nam, Y đã quyết định
“giải quyết bài toán A Sầu bằng một cuộc tấn
công tổng lực như kiểu chiến tranh thế giới thứ 2” (tài liệu đã dẫn;
Hamburger, Zaffizi).
Bộ Tham mưu Quân đoàn
24 đã lên kế hoạch với bốn chiến dịch độc lập, một chiến dịch nhằm nhằm vào khu
căn cứ 611 và phía bắc Thung lũng A Sầu, tiếp theo là các chiến dịch lớn nhất của Liên
quân Mỹ Ngụy trong chiến tranh ở Việt Nam nhằm vào các địa điểm khác nhau thuộc
Thung lũng A Sầu. Chiến dịch thứ nhất là chiến dịch Dewey Canyon. Ba chiến dịch
tiếp theo là Massachusetts Striker (Tiền đạo/Trung phong Massachusetts), Apache
Snow (Tuyết rơi trên đỉnh núi Apat) và Montgomery Rendezvous (Điểm hẹn
Montgomery).
Với kế hoạch 4 chiến
dịch tấn công vào Thung lũng A Sầu, Bộ chỉ huy Quân sự Mỹ ở miên Nam và Tướng
Stiwel đã đưa vào trận hầu hết các lực lượng của hai sư đoàn Mỹ, một sư đoàn
VNCN và một số đơn vị tham chiến khác. Đó là Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Mỹ số
3, Sư đoàn Dù Mỹ 101, một số các đơn vị hỗ trợ của Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, Sư
đoàn 1 QLVNCH và một lực lượng hùng hậu trực thăng vận chuyển, các phi đội máy
bay trực thăng vũ trang, các phi đội máy bay
ném bom, kể cả máy bay ném bom b52. Liên quân Mỹ Ngụy hoàn toàn tin tưởng
sẽ giành được thắng lợi trong cuộc chiến ở Thung lũng A Sầu thuộc huyện A Lưới,
Thừa Thiên.
Với chiến dịch thứ nhất
Dewey Canyon, Bộ chỉ huy Liên quân Mỹ Ngụy dự định tiêu diệt các lực lượng và
phá hủy tất cả các cơ sở hậu cần của ta ở Thung lũng Dakrong và phía bắc Thung
lũng A Sầu; đồng thời khóa chặt cửa ngõ đi vào thung lũng từ phía bắc Thung
lũng A Sầu.
Chiến dịch thứ hai
cũng với những mục tiêu trên nhưng ở phía nam Thung lũng A Sầu; đồng thời chặn
lối đi của quân ta xuống phía nam thung lũng.
Chiến dịch thứ ba
(chiến dịch đánh lên Đồi A Bia, chiến dịch Tuyết rơi trên đỉnh A Patche) được
coi là chiến dịch then chốt nhằm vào những mục tiêu phía tây bắc Thung lũng A Sầu.
Chiến dịch thứ tư nhằm
vào sườn phía đông và trung tâm Thung lũng A Sầu.
Các tài liệu của phía
Mỹ đã chỉ ra đây là một kế hoạch tổng lực, tất
cả bốn chiến dịch đều nhằm một mục đích “giải quyết triệt để bài toán A Sầu”
(tài liệu dã dẫn).
Rất tiếc trong bộ Lịch
sử Chiến tranh chống Mỹ của ta chỉ đề cập có hai trang rưỡi về trận A Bia mà
không hề nhắc gì đến ba chiến dịch còn lại của Mỹ Ngụy trong một kế hoạch tổng
thể nhằm “giáng đòn quyết định hạ gục kẻ thù”; còn trong các bộ lịch sử và sách
giáo khoa lịch sử dùng trong các trường đại học và phổ thông thì không nhắc gì đến các chiến dịch trong niên biểu
mà người Mỹ đã nêu ở trên. Chẳng lẽ đây là một góc khuất trong lịch sử Việt
Nam?
Trong thực tế, cả hai
bên đều chuẩn bị “cuốn vào ba chiến dịch
lớn nhất của Liên quân trong cuộc chiến tranh Việt Nam diễn ra suốt 167 ngày đêm”(tài liệu đã dẫn). Đó là bốn chiến dịch tổng lực của Mỹ Ngụy nhằm
đạt được những mục tiêu đã nêu. Ngoài ra
kẻ địch còn dự định sau khi đã hoàn thành các mục tiêu, chúng sẽ xác lập các
căn cứ, đóng quân lâu dài để chiếm lại địa
bàn vùng rừng núi chiến lươc, vĩnh viễn cắt đứt tuyến đường vận chuyển của
chúng ta từ miền Bắc vào miền Nam. Bước đầu tạo tiền đề để thực hiện thắng lợi Chiến
lược Việt Nam hóa chiến tranh.
Chiến dịch Dewey Canyon
Mở màn chuỗi bốn chiến
dịch là chiến dịch Dewey Canyon. Chiến dịch này ban đầu mang tên Dawson River
South do Sư doàn 3 Thủy quân Lục chiến tiến hành. Nó diễn ra từ ngày 22/1/1969
đến ngày 18/3/1969 trên một phạm vi rộng của Thung lũng Dakrong, phía bắc Thung
lũng A Sầu và một phần lãnh thổ thuộc Cộng hòa Nhân dân Lào.
Bối cảnh
Các đơn vị Thủy quân
Lục chiến Mỹ được giao nhiệm vụ phụ trách khu vực Vùng 1 chiến thuật (bao gồm 5
tỉnh phía bắc miền Nam từ giai đoạn năm 1954 đến năm 1975). Các đơn vị TQLC tập
trung đóng quân rải rác dọc theo vĩ tuyến 17. Nơi đây Mỹ đã xây dựng hàng rào
điện tử mang tên Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara. Hàng rào điện tử chúng rêu
rao không một binh lính đối phương nào có thể lọt qua. Thực chất hàng rào này
là sự kết hợp giữa các đơn vị bộ binh và hệ thống cảm biến điện tử trên mặt đất
dọc vĩ tuyến 17 và dọc theo phía bắc đường mòn Hồ Chí Minh, nhằm ngăn chặn dòng
hàng hóa, quân trang quân dung và bộ đội của ta từ Bắc vào Nam.
Cũng như Bộ chỉ huy
Quân sự Mỹ ở miền nam Việt Nam, Bộ chỉ huy Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến nhận
được báo cáo tình báo chỉ ra quân “Bắc Việt” đã tập trung binh lính và quân nhu
ở Thung lũng Dakrong và Thung lũng A Sầu. Sư đoàn 3 Thuỷ quân Lục chiến càng đặc
biệt quan tâm đẩy mạnh Chiến dịch Dewey Canyon, vừa nhằm thực hiện nhiệm vụ
chung vừa thực hiện nhiệm vụ riêng của Bộ chỉ huy Quân đoàn 24.
Diễn biến
Chiến dịch Dewey
Canyon chia làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1 bắt đầu từ
ngày 22/1. Sau những trận ném bom và bắn phá dữ dội của các loại máy bay dọn
bãi, yểm trợ, các tiểu đoàn1, 2,3 thuộc Trung đoàn 3 Thủy quân Lục chiến đổ bộ
chiếm đóng một số địa điểm ở Thung lũng Dakrong. Tại đây đã xảy ra những suộc
giao tranh quyết liệt giữa 3 tiểu đoàn Mỹ với các đơn vị chủ lực, bộ đội địa
phương, lực lượng Đường dây 559 và dân quân du kích miền tây Trị Thiên. Lực lượng
Thủy quân Lục chiến đã sử dụng tối đa ưu thế máy bay trực thăng, chiếm đóng các
điểm cao, xây dựng một số trận địa hỏa lực để đảm bảo “chiếc ô hỏa lực pháo”
cho bộ binh tiến quân triển khai đội hình càn quét mở rộng. Về phía chúng ta, vừa
vận động tấn công quân Mỹ vừa sử dụng pháo 122mm, cối các loại từ bên kia biên
giới Lào liên tục bắn vào các trận địa pháo và đội hình địch. Trung đoàn 3 Thủy
quân Lục chiến bị tổn thất rất nặng nề.
Giai đoạn 2 bắt đầu từ
ngày 24/1. Ba tiểu đoàn xung kích Thủy quân Lục chiến tiến hành mở rộng nhiều
cuộc càn quét, lùng sục tiến sát biên giới Lào và phía bắc Thung lũng A Sầu. Một
số cuộc giao tranh giữa hai bên diễn ra khốc liệt với sự huy động tối đa hỏa lực
trên không của Mỹ Ngụy và hỏa lực pháo cối của ta từ bên kia biên giới.
Giai đoạn 3 bắt đầu
vào ngày 11/2. Hai bên mở rộng giao
tranh ở phía bắc Thung lũng A Sầu. Thủy quân Lục chiến Mỹ quyết định tấn công
sang bên kia biến giới Lào, nhằm tiêu diệt các trận địa pháo, cối và hệ thống
kho tàng bên kia biên giới của ta. Phía địch thì cố tìm diệt. Phía ta thì vận động
tấn công để bảo toàn lực lượng và quyết giữ hệ thống kho hậu cần. Về cuối chiến
dịch tổn thất của cả hai bên tăng lên nhanh. Cuối tháng 2 đầu tháng 3 các đơn vị
Thủy quân Lục chiến Mỹ buộc phải rút dần. Ngày 18/3/1969 chiến dịch kết thúc.
Kết quả
Theo số liệu của Mỹ,
chúng ta đã loại khởi vòng chiến đấu gần 1400 binh lính (Dewey Operation Canyon,
Wikipedia) chủ yếu là lính Mỹ. Mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt các lực lượng vũ
trang, phá hủy hệ thống kho hậu cần của chúng ta, nhưng ngược lại kẻ địch bị
chúng ta tiêu diệt, tiêu hao một bộ phận lớn sinh lực. Chúng không thực hiện được
mưu đồ cắt đứt tuyến đường mòn vận chuyển, cô lập Thung lung A Sầu để mở những
chiến dịch tiếp theo. Tuy nhiên chúng ta cũng chịu nhiều tổn thất. Theo số liệu
của Mỹ, quân và dân ta hy sinh và bị thương 1700 người. Một số kho lương thực,
kho đạn, vũ khí của ta bị chúng phá hủy.
Chiến dịch Massachusetts Striker
Chiến dịch Massachusetts
Striker do Lữ đoàn 2 thuộc Sư Dù 101 và một số đơn vị Mỹ Ngụy đảm nhận hỗ trợ.
Thời gian diễn ra chiến dịch từ ngày 29/2/1969 đến ngày 8/5/1969. Lữ đoàn Dù 2 thuộc
Sư Dù 101 triển khai kế hoạch nhằm vào các mục tiêu phía nam Thung lũng A Sầu.
Theo tài liệu của Mỹ, đương đầu với quân Mỹ là Trung đoàn 9 chủ lực cùng với bộ
đội địa phương và quân dân miền tây các huyện Thừa Thiên.
Bối cảnh
Sư đoàn Dù cho tới thời
điểm đó là Sư đoàn có bề dày lịch sử của Quân đội Mỹ. Nó đã tham gia nhiều chiến
dịch trong chiến tranh thế giới lần thứ 2. Từ năm 1965 đến năm 1971 Sư đoàn Dù
101 đã tham gia nhiều chiến dịch ở miền Nam từ Khu phi Quân sự dọc vĩ tuyến 17
đến chiến trường Tây Nguyên.
Bắt đầu từ cuối năm
1967 Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 2 và Lữ đoàn 3 thuộc Sư Dù 101 đã được Bộ chỉ huy Mỹ tại
miền Nam tin tưởng triển khai tại khu vực phía bắc Vùng 1 chiến thuật, thực hiện
nhiệm vụ tìm diệt và cắt đứt tuyến đường vận chuyển của ta qua Lào, qua Thung
lũng A Sầu. Thực hiện các chiến dịch ở A Sầu là nhiệm vụ của Sư đoàn Dù 101.
Tham gia chiến dịch Massachusetts Striker theo kế hoạch của Tướng Stiwel vừa là
nhiệm vụ chung vừa là nhiệm vụ riêng của Sư đoàn này.
Diễn biến
Sau hai ngày không
kích và bắn phá của lực lượng không quân và pháo binh, dưới sự hỗ trợ của Tiểu
đoàn 2 Trung đoàn 7 Kỵ binh bay, Lữ đoàn Dù 2 cho quân đổ bộ chiếm một số điểm
cao, xây dựng các trận địa hỏa lực và các trạm quan sát theo dõi các hoạt động
của ta ở phía nam Thung lũng A Sầu. Lữ đoàn 2 triến khai kế hoạch tấn công theo
hai hướng nam và tây nam. Một tiểu đoàn cơ động tấn công ở khu vực xung quanh
Trại A Sầu cũ và một tiểu đoàn cơ động tấn
công vào khu vực những con đường dẫn tới biên giới Lào.
Ngay khi đổ bộ xuống
mặt đất, quân Mỹ đã vấp phải kẻ thù đầu tiên rất khó chịu tại thung lũng, đó là địa hình hiểm trở, thời tiết
khắc nghiệt. Mưa to đổ xuống hàng tuần. Mười ngày trôi đi nhưng “công việc tiến
triển theo kế hoạch chậm chạp như rùa bò” (tài liệu đã dẫn).
Về phía chúng ta,
ngay sau khi quân Mỹ đổ quân xây dựng các trận địa hỏa lực và đổ quân xuống bảo
vệ các căn cứ hỏa lực, các trung đội và các đại đội thuộc tiểu đoàn 816, 818 cùng
bộ đội địa phương, quân du kích đã bao vây, áp sát. Thậm chí ngay khi kẻ địch
còn ở trên trực thăng, chưa kịp tiếp đất, các chiến sỹ ta đã sáng tạo đặt mìn cleymore,
DH10 hướng vào máy bay chuyên chở đầy lính Mỹ kích nổ. Những dãy mìn phát ra những
tiếng nổ dữ dội, đinh tai nhức óc. Hàng ngàn mảnh thép bắn vào hàng chục chiếc
trực thăng đang cố gắng đổ quân, khiến sáu chiếc trực thăng dính đầy mảnh thép,
vỡ kính chắn gió, vỡ đường dẫn nhiên liệu. Một số phi công và nhiều binh lính Mỹ
bị loại khỏi vòng chiến đấu. Kẻ địch kinh hoàng vì vừa đặt chân xuống thung
lũng đã chịu tổn thất nặng nề (Hamburger Hill, Zaffiri).
Ở hướng tấn công thứ
nhất, một số trận đánh ác liệt đã xảy ra tại các bãi đáp quanh căn cứ A Sầu.
Quân ta vượt qua đường ranh giới cây cối, tập kích vào đội hình quân Mỹ, dùng
AK bắn tạt sườn khi lính Mỹ tiến tới. Lính Mỹ đáp trả bằng súng trường và những
cơn mưa lựu đạn. Quanh căn cứ hỏa lực Veghen quân ta bò trườn trong mưa và
sương mù, ném bộc phá và lựu đạn vào khu vực binh lính Mỹ đóng quân. Binh lính
Mỹ cũng đáp trả lại bằng lựu đạn và súng phóng lựu. Dù màn đêm sập xuống phủ tối
rừng núi như bưng nhưng những trận giao tranh vẫn tiếp tục cho đến rạng sáng
(tài liệu đã dẫn).
Sau hơn ba mươi ngày
đứng chân được tại một số khu vực, Tiểu doàn 1/502 thuộc Lữ đoàn Dù 2 triển
khai 3 đại đội càn quét lùng sục trên 3 trục đường dọc phía nam Thung lũng A Sầu.
Tiểu đoàn 816 của ta quyết tâm đeo bám địch. Ngày 14/4 quân ta chốt trên động A
Tây, một ngọn núi khum tròn với sườn núi rộng, sống nhọn trườn xuống phía bắc.
Trên đỉnh núi và trên các sườn núi, quân ta đã xây dựng một hệ thống hầm, giao
thông hào, các chốt hỏa lực liên hoàn, liên thông rất kiên cố. Mặc dầu chốt giữ
trên đồi nhưng các đơn vị cấp trung đội, đại đội của ta chủ động vận động tấn
công, rút lui linh hoạt. Kẻ địch không nắm được lực lượng của ta, không biết
đâu là mục tiêu chính, đâu là mục tiêu phụ.
-
Ngày 17/4 Trung tá Davis Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn 1/502 ra lệnh cho đại đội Alpha tấn công lên sườn núi vào sáng sớm. Quân Mỹ
hùng hổ tiến lên núi theo con đường mòn. Bất ngờ một cơn lốc súng AK và súng
máy của một đơn vị phục kích của ta xả bắn vào đội hình quân Mỹ. Chỉ trong một
vài phút, trung đội dẫn đường gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Mười hai binh
lính chết tại trận. Số còn lại hầu hết bị thương. Toàn bộ đại đội Mỹ choáng
váng rút xuống chân đồi (tài liệu đã dẫn).
Tiểu đoàn 1/502 và đại
đội Alpha gọi máy bay phản lực, trực thăng vũ trang, các trận địa pháo giội bom
đạn trùm lên ngọn núi hơn một giờ. Sau đó một đại đội được lệnh tấn công lên sườn
núi. Tưởng dùng hỏa lực tiêu diệt được hết lực lượng của ta, một trung đội lính
Mỹ được lệnh bò, trườn đến lưng chừng núi, nhưng bị quân ta phản kích đánh bật
xuống.
Nhận thấy phải đương
đầu với một lực lượng lớn, Trung tá Davis ra lệnh cho Đại đội Charlie phong tỏa
phía nam ngọn núi và ra lệnh cho Đại đội Bravo tấn công bên phía đối diện. Sau
khi tiến quân lên được vài chục mét, số phận của Đại đội Bravo giống như Đại đội
Alpha, chúng bị quân ta phản kích từ phía trước và tập kích hai bên sườn. Mười tên
lính Mỹ bị bắn chết ngay tại trận, hàng chục binh lính khác bị thương. Cả đại đội
Dù Mỹ vội vàng rút chạy.
Ngay sau khi Đại đội
Bravo rút lui, bom các loại, đạn pháo các loại thuộc Lữ đoàn Dù, Sư đoàn dù 101
và lực lượng không quân Mỹ lại cấp tập trút xuống Động A Tây. Ngọn núi dường
như bị băm nát. Đất đá tơi vụn. Lần thứ ba, hai đại đội Mỹ lại được lệnh tấn
công lên từ hai hướng. Cả hai đại đội lại bị các chiến sỹ của ta đẩy lùi. Tiểu
đoàn lính Dù phải đào hào quanh ngọn núi để phòng thủ. Quân Mỹ đã phải huy động
bốn trận địa hỏa lực bắn suốt ngày đêm nhưng vẫn không loại bỏ được chiếc hầm
nào của ta, không ngăn chặn được những cuộc tập kích nhỏ của ta vào lực lượng của
chúng suốt đêm.
-
Ngày 18/4 được trang bị súng không giật 90mm chở
đến bằng máy bay trong đêm tới, hai đại đội Mỹ lại được lệnh tấn công hai bên đối
diện sườn núi chính. Với đợt tấn công này, quân Mỹ đã chiếm được được bốn căn hầm
chốt, đứng chân được một thời gian trên sườn núi. Hai đại đội Mỹ định tấn công
lên ngọn đồi, nhưng quân ta tiến hành tổ chức phản công quyết liệt, đẩy lùi cả
hai đại đội Mỹ xuống chân núi. Suốt đêm 18 quân ta tổ chức nhiều cuộc tập kích
vào quân Mỹ, gần như binh lính Mỹ phải thức trắng đêm trong ánh pháo sáng.
-
Sáng ngày 19/4, 50% binh lính Mỹ thuộc tiểu đoàn
1/502 Dù đã bị loại khỏi vòng chiến đấu. Quân ta vẫn cố thủ vững chắc trên Động
A Tây, một địa danh lính Dù Mỹ gọi là “Sườn núi máu” (Đồi Thịt băm, Zaffiri).
Cũng trong ngày hôm đó, nhận ra bom đạn cho đến thời điểm đó dường như không
tiêu diệt được những căn hầm của ta trên hai sườn núi, lực lượng không quân Mỹ bắt
đầu thử nghiệm những quả bom 1000 pound với ngòi nổ chậm (1 pound bằng 0,45 kg).
Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù và Bộ chỉ huy Quân đoàn 24 Mỹ nghi ngờ có một hệ thống đường
hầm dài xuyên suốt sườn núi và tất cả những căn hầm đều được kết nối với nó.
Chúng huy động hàng chục máy bay phản lực, dùng 20 quả bom 1000 pound đánh vào
các vị trí mà máy bay trinh sát đã định vị. 20 quả bom 1000 pound trút xuống đã
khiến toàn bộ sườn núi đổ sập. Khói lửa bùng lên kín một góc trời.
Ngay sau khi bom dừng
nổ, binh lính hai đại đội lại theo hướng trực diện tiến lên núi. Binh lính Mỹ
tin rằng tất cả những căn hầm trên Động A Tây đã bị loại bỏ. Quân ta đã rời bỏ các
vị trí trên động A Tây, rút chạy về phía A Sầu. Nhưng một số trung đội của ta vẫn
trụ lại chiến đấu. Theo tài liệu của Mỹ, hai đại đội Dù Mỹ đã phải trải qua một
ngày “khó khăn nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử của Sư đoàn Dù 101”. Quân ta
từ khắp mọi nơi trên sườn núi, từ trên cây đổ xuống, từ phía sau tảng đá, hang
đá nhô lên và ngay trong đống đổ nát của những căn hầm, đường hào bị sập vùng
lên chiến đấu với tinh thần quyết tử. Hai đại đội Mỹ lần thứ sáu tiếp tục bị đẩy
lùi xuống chân núi.
Cho đến tận tận đầu
giờ chiều ngày 19/4 sau một giờ ngọn núi tiếp tục bị nghiền nát bởi một khối lượng
đạn khổng lồ của bốn trận địa pháo, cả hai đại đội Mỹ xoay sở mới tìm cách chiếm
được một chỗ trú chân ở cuối phía bắc sườn
núi. Từ đó quân Mỹ tổ chức nhiều hướng tấn công lên ngọn núi.
Biết không thể giữ được
chốt, quân ta tìm cách rút lui. Tài liệu Mỹ ghi lại: “Tuy vậy, một số binh lính
Bắc Việt còn sống sót không chịu rút, họ ở lại các vị trí của mình cho đến khi
bị hy sinh” (tài liệu đã dẫn).
Đánh chiếm được Động
A Tây binh lính Mỹ đã phải trả giá xương máu của gần 150 binh lính Mỹ với một
lượng bom đạn khổng lồ, một con số kinh ngạc cho một quả núi không có giá trị
nhiều. Lữ đoàn Dù 2 trải qua một cơn sóng
chấn động với những chiến thuật mà “quân Bắc Việt” sử dụng trên Động A Tây.
Các sỹ quan chỉ huy từ Lữ đoàn Dù đến Sư đoàn Dù đều đặt ra câu hỏi liệu Động A Tây có phải là một trường hợp cá
biệt hay một điềm báo trước những điều tồi tệ sắp đến?
Trong khi Tiểu đoàn Dù
1/502 phải đương đầu với Tiểu đoàn 816 của ta ở Động A Tây, ở hướng thứ hai, Tiểu
đoàn 2/327 Dù được giao nhiệm vụ càn quét phía nam Thung lũng A Sầu theo các trục
đường tới sát tới biên giới Lào. Từ ngày 22/3 đến cuối chiến dịch, quân Mỹ tổ
chức nhiều cuộc càn quét, lùng sục, tìm kiếm các kho hậu cần. Các đơn vị của chúng
ta tránh những cuộc giao tranh lớn, chủ động rút sang bên kia biên giới để bảo
toàn lực lượng. Ngày 8/5 chiến dịch chiến dịch Massachusetts Striker kết thúc.
Kết quả
Mục tiêu chiến dịch của
Mỹ nhằm tiêu diệt các lực lượng vũ trang và hệ thống kho hậu cần của ta ở phía
nam Thung lũng A Sầu đều không đem lại kết quả mong muốn. Việc ngăn chặn tuyến
đường vận chuyển vào Quảng Nam và các tỉnh phía nam là bất khả thi. Chính phía
Mỹ thừa nhận binh lính Mỹ chỉ tiêu diệt được “178 kẻ thù” và làm bị thương vài
trăm cộng quân. Tuy nhiên quân Mỹ cũng gây ra nhiều thiệt hại, phá hủy được một số kho hậu cần,
phá hủy hàng tấn đạn dược và một số lượng vũ khí, gây ra một số khó khăn trong
ngắn hạn cho chúng ta.
Chiến dịch Apatche Snow (Tuyết rơi trên đỉnh núi Apat- Chiến dịch trên
đồi A Bia, lính Mỹ gọi là Đồi Thịt băm)
Ngay sau khi Chiến dịch Masachusetts kết thúc hai ngày, Sư đoàn Dù
101 quyết định mở Chiến dịch Apatche Snow (Tuyết rơi trên đỉnh A Pat). Chiến dịch
này được Liên quân Mỹ Ngụy coi là chiến
dịch then chốt. Chiến dịch diễn ra từ
ngày 10/5 đến ngày 20/5/ 1969. Liên quân Mỹ Ngụy đã huy động Lữ đoàn Dù số 3
thuộc Sư đoàn Dù Mỹ 101, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 4 thuộc Sư đoàn 1 QLVNCH vào trận
chiến. Cụ thể chúng huy động trong chiến dịch khoảng 1.800 binh lính bộ binh, 10
tiểu đoàn pháo binh (bắn 19.213 viên đạn pháo). Lực lượng Không quân chiến thuật
yểm trợ 272 phi vụ, ném 890 tấn bom phá và 115 tấn bom napalm.
Lực lượng của ta bao
gồm Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 324 cùng một số ít dân quân du kích huyện A Lưới.
Sau ngày 20/5/1969 Trung đoàn 3 rút quân. Trung đoàn 1 Sư đoàn 324 tiếp quản
khu vực (tài liệu tham khảo: Lịch sử chiến tranh chống Mỹ; Đồi Thịt băm,
Wikipedia; Lịch sử Sư đoàn 324; Hồi ký Trung đoàn một thời máu lửa, Đại tá Hồ Hữu
Lạn: Hồi ký Từ châu thổ sông Hồng đến sông Hương xứ Huế, Thiếu tướng Lê Huy Mai).
Bối cảnh
Thung lũng A Sầu cách
phía tây bắc thành phố Huế khoảng 30 km, được bao bọc với một số điểm cao như Động
So (1.100m), Ba Lao (1.400m), A Bia (937m) và Động Ràng... Sông A Ráp và đường
14 chạy dọc chiều dài thung lũng. Phía tây bắc có sông Đáp Lim, A Lưới. Thung
lũng A Sầu được nối với Huế bằng đường số 12.
Đồi A Bia có điểm cao
937 nổi lên giữa vùng rừng núi trùng điệp gần biên giới Việt-Lào, thuộc Thung
lũng A Sầu. Đồi A Bia có ba mỏm đứng thế chân kiềng cao xấp xỉ nhau, cách nhau
khoảng 400m. Đó là điểm cao 916 và điểm
900. Trước đây quân Mỹ đã lên A Bia đóng dã ngoại, còn nguyên công sự. Đỉnh A
Bia bị bom pháo phát quang nham nhở, trơ lại những thân cây khô cháy. Toàn bộ khu
vực này là một dải gồ ghề, hoang dã bao phủ bởi rừng rậm với những tán tre mọc dày cộng vởi cỏ voi cao
ngang thắt lưng.
Chiến dịch Tuyết rơi
trên đỉnh Apat khởi đầu bằng cuộc tấn công lên đồi A Bia vào 7h10 ngày
10/5/1969. Nhưng công việc chuẩn bị cho chiến dịch của cả hai bên bắt đầu nhiều
ngày trước đó. Từ ngày 24/4 đến ngày 9/5, mười lăm ngày quân Mỹ đã liên tục ném
bom phá, bom phát quang, bom cháy từ phía nam doanh trại A Sầu tới phía bắc
chân núi Động So để chuẩn bị cho việc đổ bộ đánh chiếm A Bia.
Lực lượng tham chiến tiến
đánh lên ngọn Đồi 937 gồm 3 tiểu đoàn thuộc
Sư đoàn Dù (Không vận) 101. Chỉ huy chiến dịch là Thiếu tướng Melvin Zais. Ba
tiểu đoàn tham chiến đều thuộc Lữ đoàn 3 chỉ huy bởi Đại tá Joseph Conmy. Tiểu
đoàn 3/187 bộ binh do Trung tá Weldon Honeycutt chỉ huy. Tiểu đoàn 2/501 bộ
binh do Trung tá Robert German chỉ huy và Tiểu đoàn 1/506 bộ binh do Trung tá
John Bowers chỉ huy. Hai tiểu đoàn 2/1 và 4/1 thuộc Sư đoàn 1 QLVNCH được giao
nhiệm vụ hỗ trợ cho Lữ đoàn 3. Các đơn vị Liên quân Mỹ Ngụy khác tham gia hỗ trợ
trong chiến dịch bao gồm Trung đoàn 9 Thủy quân Lục chiến Mỹ, Thiết đoàn 3 thuộc
Trung đoàn Kỵ binh 5 và Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 Quân lực Việt Nam Cộng hòa
(tài liệu đã dẫn).
Kế hoạch của Đại tá
Conmy là dùng 5 tiểu đoàn mở các cuộc tấn công vào Thung lũng A Sầu bằng trực
thăng vào ngày 10 tháng 5 năm 1969 để tìm diệt quân chủ lực cũng như phá hủy
các kho quân nhu của ta. Kế hoạch tổng thể của cuộc tấn công là Thủy quân lục
chiến và các đơn vị trinh sát tiến về phía biên giới Lào, trong khi các đơn vị
VNCH cắt đường giao thông qua thung lũng. Tiểu đoàn 2/501 và Tiểu đoàn 1/506 thuộc
Lữ Dù 3 sẽ tiêu diệt quân ta và ngăn chặn các tuyến đường rút lui sang Lào.
Theo tài liệu của Mỹ,
sau khi liên tục giao chiến với Thủy quân Lục chiến Mỹ trong Chiến dịch Dewey Canyon vào tháng 2, phía
ta đã di chuyển Trung đoàn 6, Trung đoàn 9 và Trung đoàn 29 vào khu vực Thung
lũng A Sầu để tái trang bị, bổ sung quân số.
Kế hoạch đánh chiếm Thung
lũng A Sầu của Mỹ đã được Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên dự kiến từ trước. Do vậy,
từ đầu tháng 3 năm 1969 Quân khu Trị Thiên đã điều Trung đoàn 3 vào chuẩn bị
chiến trường sẵn sàng đánh Mỹ. Sư đoàn trưởng 324 là Chu Phương Đới, Chính ủy
Nguyễn Xuân Trà cùng đi với trung đoàn 3 (tài liệu đã dẫn)
Chiều ngày 7 tháng 5,
Đảng ủy Trung đoàn 3 Sư 324 họp mở rộng. Sau khi nghe Chính ủy Kiều Tam Nguyên quán
triệt mục đích, yêu cầu của các cấp, hội nghị dành nhiều thời gian thảo luận chọn
phương án tác chiến do Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan trình bày. Hội nghị đã nhất
trí với phương án chiến thuật vận động tiến
công kết hợp chốt; lấy đại đội, trung đội xuất kích ngắn, tập kích vào từng cụm
quân Mỹ đóng dã ngoại. Tuỳ tình hình diễn biến cụ thể, trung đoàn chuẩn bị
phương án vận động tiến công kết hợp chốt cấp trung đoàn, tiêu diệt các tiểu
đoàn Mỹ. Để đạt được mục đích đó, trung đoàn phải tạo cho được cụm điểm chốt
liên hoàn nhằm thu hút quân Mỹ vào sâu hơn nữa, tạo khả năng và điều kiện cho
các phân đội cơ động tấn công tiêu diệt quân dã ngoại và quân ứng cứu Mỹ (tài
liệu đã dẫn).
15 giờ ngày 8 tháng
5, các đơn vị thuộc Trung đoàn 3 Sư 324 xuất phát hành quân chiếm lĩnh trận địa.
Tiểu đoàn 8 được tăng cường thêm Đại đội 14 cối 82mm xây dựng cụm chốt ở Đồi A
Bia (điểm cao 937). Tiểu đoàn 7 bố trí ở khu vực các điểm cao 900 và 916. Các
đơn vị trinh sát bám sát từng mũi tiến quân của kẻ địch. Đại đội 16 cơ động dọc
phía tây đường số 14 đoạn A Sầu - A Lưới. Khối hỏa lực còn lại do trung đoàn trực
tiếp nắm. Tiểu đoàn 9 làm lực lượng dự bị, trước mắt có nhiệm vụ chuyển gạo, đạn
từ A Rum vào A Lưới (tài liệu đã dẫn).
Diễn biến
-
8h10 ngày 10/5 năm tiểu đoàn Liên quân Mỹ Ngụy:
Ba tiểu đoàn Dù thuộc Lữ đoàn Dù 3 và 2 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 1 Việt Nam Cộng
hòa tập kết tại năm bãi đáp. Cả năm tiểu đoàn thuộc Liên quân Mỹ Ngụy tiến hành
trinh sát, càn quét khu vực phía đông Thung lũng A Sầu. Tiểu đoàn 3/187 được lệnh
tấn công lên Đồi A Bia theo ba hướng.
-
Mở màn trận đánh vào lúc 10 giờ 15 phút, Tiểu đoàn
8 do Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Ninh chỉ huy nổ súng tấn công 1 đại đội thuộc Tiểu
đoàn 3/187 Mỹ trên các điểm cao 400, 500, cách đông bắc A Bia khoảng 2 km. Đại
đội 5 được tăng cường hai khẩu cối 82mm, chia làm ba mũi, mũi chính đánh ngang
đội hình địch ở đèo Yên ngựa rồi tỏa ra hai hướng đánh ngược lên đỉnh 500 và đỉnh
400 để kết hợp với hai mũi đánh từ phía sau mỏm 500 xuống.
Tại mỏm cao 400, sau
khi bí mật tiếp cận mục tiêu, đến giờ nổ súng, tiểu đội 10 tiêu diệt 1 tiểu đội
Mỹ, sau đó phát triển xuống đèo Yên ngựa, phối hợp với trung đội 3 đánh ngược
lên. Cùng lúc đó ở mỏm 500, tiểu đội 9 đánh lên đỉnh, nhưng trúng mìn định hướng
quân Mỹ gài sẵn nên bị thương và hy sinh gần hết. Mũi phát triển từ đèo yên ngựa
lên cũng bị quân Mỹ từ trên mỏm bắn xuống, đội hình tiến công ở hướng này bị chững
lại. Đại đội 5 phải dùng cối 82 và B-40 đặt từ đỉnh 400 bắn sang chi viện nhưng
vẫn không dứt điểm được mục tiêu.
Pháo binh Mỹ dồn dập
bắn vào mỏm 400, kết hợp với hai máy bay trực thăng vũ trang rà sát ngọn cây quét
hỏa lực, thả lựu đạn xung quanh điểm cao 500. Trước tình hình đó, tiểu đoàn 8 lệnh
cho đại đội 5 lùi về A Bia tiếp tục xây dựng trận địa chốt. Cuộc chiến đấu diễn
ra khoảng một giờ, hàng chục lính Mỹ bị chết tại trận, nhiều tên bị thương. Phía
ta do Tiểu đoàn 8 không tập trung vào mục tiêu là sở chỉ huy tiểu đoàn Mỹ nên đã
để quân Mỹ kịp thời tổ chức chống cự, gây khá nhiều tổn thất.
Ở hướng Tiểu đoàn 7
do Tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu chỉ huy, ngay phút đầu, ban chỉ huy tiểu đoàn
đã tập trung hỏa lực chi viện cho đại đội 1 đánh lên điểm cao 900. Sau khi hàng
chục lính Mỹ tử thương, phía quân Mỹ đưa 6 máy bay trực thăng lên chi viện và bốc
2 đại đội ở đây về phía nam. Quân Mỹ biết gặp phải lực lượng chủ lực, tăng cường
đánh phá và dùng trực thăng liên tục trinh sát khu vực xảy ra chiến sự.
Nhìn chung ở cả hai
hướng, hai bên giao tranh cho đến 16h20. Quân Mỹ tiến lên núi rất chậm vì địa
hình hiểm trở, vì liên tục bị quân ta tấn công. Các trận đánh diễn ra rất ác liệt.
Đến 16h45 Quân Mỹ rút xuống đèo Yên ngựa.
-
7h47 ngày 11 tháng 5, Honeycutt giao cho 2 đại đội
Alpha và Delta do thám phía bắc và tây bắc đồi A Bia, trong khi các đại đội
Bravo và Charlie tăng cường tại các tuyến đường khác nhau. Nhưng hai đại đội Dù
Mỹ chỉ tiến quân được vài chục mét, chúng đã bị chặn đứng... Chúng gọi pháo, trực
thăng vũ trang liên tục bắn phá, mở lối tiến tới. Chiến sự diễn ra rất ác liệt.
13 giờ ngày 11 tháng 5, Mỹ đổ 2 tiểu đoàn xuống gần các điểm cao 900, 916 và A
Bia. Phía ta Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan ra lệnh cho tiểu đoàn 7 để 1 đại đội
ém quân tại khu vực 900, 916, còn 3 đại đội cơ động bám sát, tấn công Mỹ.
Vừa ra khỏi bãi đáp
trực thăng trên sườn núi phía bắc, Đại đội Bravo Mỹ đã giao tranh dữ dội với lực
lượng của ta trong khu vực. Phía Mỹ nhanh chóng chỉ đạo máy bay trực thăng vũ
trang AH-1 Cobra, trang bị rocket và súng máy hạng nặng để hỗ trợ cho một cuộc
tấn công vội vã. Trong rừng rậm, những chiếc Cobra nhầm Tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn
3/187 Mỹ với một đơn vị của ta nên đã tấn
công, bắn chết một số lính Mỹ và làm bị thương 35 tên. Việc bắn nhầm này phá vỡ
đội hình địch, và buộc tiểu đoàn 3/187 phải rút lui vào vị trí phòng thủ đêm (Đồi
thịt băm, Zaffiri).
Trong đêm ngày 11, Tiểu
đoàn Đặc công của Quân khu Trị Thiên tấn công sở chỉ huy Lữ đoàn dù 3 Mỹ ở căn
cứ Động Tranh. Tiếp đó cối của ta tập trung bắn vào một trận địa cối thuộc Tiểu
đoàn 1/506, phá hủy và tiêu diệt nhiều binh lính Mỹ tại trận địa.
-
Sáng ngày 12/5 phía Mỹ phải đưa tiểu đoàn 2/506 ở
A Lê Thiêm về bảo vệ sở chỉ huy lữ đoàn. Mỹ rút tiểu đoàn 2 về Động Tranh, phía
bắc A Bia không còn lính chốt giữ. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định điều tiểu
đoàn 9 do Tiểu đoàn trưởng Võ Vượng chỉ huy di chuyển từ địa đạo Lam Sơn đến
khu vực Bãi Ổi. Tiểu đoàn 8 tiếp tục củng cố trận địa chốt.
Honeycutt chỉ huy các
đại đội của mình tới các vị trí chuẩn bị cho một cuộc tấn công phối hợp với các
tiểu đoàn khác theo kế hoạch vào ngày 13/5. Khi các mũi nhọn của các đại đội tiến
lên phía trước chúng gặp những điểm chốt và bị đánh chặn, lại bị các đơn vị của
ta vận động tấn công, đeo bám. Một số trận chiến diễn ra rất ác liệt. Lữ đoàn
Dù đã phải điều nhiều máy bay phản lực, máy bay trực thăng vũ trang cùng với
năm trận địa hỏa lực liên tục đánh phá yểm trợ cho các đơn vị của chúng. Tiểu
đoàn 3/187 tiến quân lên đồi theo kế hoạch đã thất bại bởi địa hình khó khăn và
sự kháng cự hiệu quả của phía ta. Suốt một ngày chúng chỉ tiến tới được 500
mét. Đại đội Delta thuộc Tiểu đoàn 3/187 rơi vào một khe núi dốc lầy lội ngày
12/5 phải chịu đựng tổn thất rất cao trong ngày.
Trong đêm ngày 12
quân ta tấn công vào căn cứ hỏa lực Firebase Airborn do Đại đội Alpha thuộc Tiểu
đoàn 2/501 bảo vệ. Theo tài liệu của Mỹ, đây là một trận tấn công đẫm máu “gây
nhiều thiệt hại nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam. Đặc công và trinh sát
của ta đã bí mật cắt mở lối qua nhiều hàng rào kẽm gai quanh căn cứ hỏa lực. Mở
màn cuộc tấn công, cối ta cấp tập hàng trăm quả đạn vào khắp trận địa. Quân Mỹ
dồn hết xuống hầm. Khi trận mưa cối vừa dứt, chúng chưa kịp định thần, quân ta
từ bốn hướng xuyên qua hàng rào kẽm gai xông vào trận địa ném bộc phá, bắn B40,
B41 vào tất cả các căn hầm lính Mỹ ẩn nấp. Gần 30 lính Mỹ chết tại trận, 62 tên
bị thương. Tất cả pháo, cối bị phá hủy hoàn toàn. Một trận đánh chớp nhoáng, hoàn
hảo, loại khỏi vòng chiến đấu một đại đội, phá hủy hoàn toàn một trận địa pháo
khiến tất cả các tướng tá Sư đoàn Dù 101 đều bị sốc.
-
6h56 ngày 13/5 Tiểu đoàn 3/187 chuẩn bị tấn công
lên Đồi A Bia. Mở đầu chúng huy động các phi đội máy bay phản lực ném bom theo
các hướng dự định tấn công. Dứt tiếng bom một đại đội Mỹ trườn theo đội hình
hàng dọc chậm chạp tiến lên vị trí chốt. Ở hướng khác Đại đội Charlie cũng hướng
lên phía ngọn đồi nhưng cả hai hướng đều bị quân ta tập kích, thiệt hại nặng nề.
Chúng tiếp tục huy động máy bay ném bom chỉ cách phía trước đội hình của chúng
dăm chục mét. Sau khi không kích, hàng trăm quả đạn pháo từ các trận địa xung
quanh của chúng liên tục nã xuống. Dứt tiếng pháo nổ, quân Mỹ lại bò lên và lại
bị quân ta đánh bật trở lại. Trận chiến diễn ra rất quyết liệt. 10 h chúng gọi
máy bay trực thăng trinh sát trên không, huy động pháo và máy bay phản lực thi
nhau trút bom đạn xuống các mục tiêu gần một giờ. Sau đó cả hai đại đội Mỹ lại
tấn công lên đồi. Quân ta chờ lính Mỹ tiến tới thật gần, từ giao thông hào, hố
cá nhân, hầm trú ẩn đồng loạt bật lên xả đạn AK vào đội hình, đồng thời ném lựu
đạn chia cắt đội hình địch. Lính Mỹ bị găm lại ở các vị trí trong làn đạn trung
liên, B40. Cả hai đại đội Mỹ buộc phải rút lui. Buổi trưa ngày 13/5, chỉ huy Lữ đoàn Dù 3, Đại
tá Conmy điều thêm Tiểu đoàn 1/506 lên Đồi A Bia. Y dự định cắt
đứt chi viện của lực lượng ta từ hướng Lào và hỗ trợ Honeycutt bằng cách tấn
công A Bia từ phía nam. Đại đội Bravo được trực thăng đưa lên Đồi 916. Chưa kịp
đặt chân xuống mặt đất, chúng đã bị quân ta tấn công mãnh liệt, thiệt nặng nề.
Các đại đội còn lại của Tiểu đoàn 1/506 di chuyển bằng đường bộ, từ một khu vực
cách Đồi 937 bốn km. Cả Conmy và
Honeycutt dự kiến Tiểu đoàn 1/506 sẽ đi chuyển tới hỗ trợ vào buổi sáng ngày
15/5. Mặc dù Đại đội Bravo đã tới Đồi 916 ngày 15 tháng 5, nhưng nó đã không
tham gia tấn công được cho đến ngày 19/5 vì rừng rậm gần như binh lính Mỹ không
thể di chuyển được.
Lúc 12 giờ trưa ngày
13/5, đại đội 6 của ta phát hiện một tốp lính Mỹ trong hố bom dưới "yên ngựa".
Chúng đang dùng ống nhòm quan sát lên đỉnh A Bia. Hai mươi phút sau nhiều lính
Mỹ kéo ra mỏm "yên ngựa". Đợi lính Mỹ dưới hố bom leo lên, phía ta
dùng mìn sát thương cùng với bộ binh tiến lên đánh vào nhóm đi trước, khẩu đội
cối 82mm đánh chặn phía sau. Quân Mỹ bỏ chạy theo triền đồi. Đại đội 1 Tiểu
đoàn 2/501 bị tiêu diệt. Quân Mỹ dùng trực thăng đổ 2 đại đội khác xuống chân
điểm cao A Bia nhặt xác đồng đội.
Quân Mỹ tiếp tục phản
kích lên A Bia ở các điểm cao 900, 916. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 quyết định tiếp
tục để tiểu đoàn 8 chốt ở A Bia và tiểu đoàn 7 giữ điểm cao 900, đưa tiểu đoàn
9 vào hoạt động ở A Lê Thiêm, A Lê Lốc, đồng thời dùng đặc công liên tục tập
kích vào các vị trí đóng quân của Mỹ. Buổi chiều cùng ngày, quân Mỹ tổ chức phản
kích vào các điểm cao 900 và 916. Tiểu đoàn 7 do Tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu
chỉ huy đánh trả quyết liệt. Cho đến 16h đại đội Deta Mỹ bị quân ta tấn công từ
điểm cao, buộc phải rút chạy qua sông…Trong thế xen kẽ, chiến sĩ Tiểu đoàn 7 đã
tập kích khiến lính Mỹ phải thường xuyên di chuyển, gọi pháo chi viện tạo nên một
vành đai hỏa lực xung quanh vị trí trú quân. Thực hiện chủ trương của trung
đoàn, đêm ngày 13 rạng ngày 14 tháng 5, Đại đội 20 Đặc công tập kích vào sở chỉ
huy Tiểu đoàn 1/506 ở điểm cao 1078 phá huỷ toàn bộ trận địa pháo 105mm.
-
Pháo Mỹ bắn suốt cả đêm tới rạng sáng ngày 14/5
để hỗ trợ cho các đơn vị Mỹ. Vào lúc 6h46, Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù 101 điều máy
bay phản lực ném bom phá, tiếp đó là bom napalm (bom cháy). Đất đá vụn tơi
trong ánh sáng bom cháy tựa tuyết rơi. 8h hai đại đội Bravo và Charlie thuộc Tiểu
đoàn 3/187 được lệnh nống lên Đồi A Bia. Đai đội Bravo tiến tới trận địa, vào
đúng bãi mìn quân ta bố trí, khi mìn kích nổ nhiều lính Mỹ bị thương vong. Đại
đội Charlie thì bị những loạt B40 bắn trúng đội hình. Tiếp theo bị lựu đạn từ
trên những căn hầm chốt lăn xuống. Quân Mỹ không thể tiến lên được. Quân Mỹ lại
tiếp tục ném bom phá, bom naplm cùng hàng trăm quả đạn pháo bắn hỗ trợ. Cuộc
chiến diễn ra vô cùng ác liệt. Lính Mỹ bắt đầu phản ứng, chống lại chỉ huy khi
bị ép tiếp tục tấn công lên đồi. Cuối ngày Đại đội Charlie hoàn toàn mất sức
chiến đấu, buộc phải rút lui… Ở hướng khác, một phân đội hỏa lực gồm B-40, B-41, cối 82, cối
60 ly của ta đã bất ngờ đánh vào đội hình của một đại đội Mỹ cách điểm cao 916
hai km về phía đông. Sau khi dùng bom, pháo bắn phá dọn đường suốt đêm ngày 13
và sáng ngày 14/ 5, quân Mỹ sử dụng tiểu đoàn 1/506 chia làm hai mũi tấn công
đánh lên A Bia. Phía đông nam, đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ bị đại đội 6 của
ta ghìm chân dưới đèo Yên ngựa bằng những bãi mìn và đạn cối. Khi quân Mỹ vượt
được lên đèo yên ngựa, vào gần tới đỉnh thì bị bộ binh ta phục kích. Bị đánh gần
và bất ngờ, lính Mỹ lùi xuống chân điểm cao, gọi pháo chi viện. Các trận đánh
ác liệt kéo dài tới tận đêm.
-
Từ ngày 15/5, biết Lữ đoàn Dù 3 Mỹ đang dồn nỗ lực
chiếm A Bia, Tiểu đoàn 8 tranh thủ thời gian giữa hai đợt phản kích đào hầm,
phát triển tuyến chốt sang hướng sườn tây bắc điểm cao A Bia nhằm tránh pháo Mỹ
từ phía đông bắc bắn tới. Hầm hào được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ,
hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực thuộc
thay nhau lên A Bia giúp Tiểu đoàn 8 xây dựng hầm hào. Với hệ thống công sự
này, Tiểu đoàn 8 nấp mình trong lòng đất đã tránh được bom pháo Mỹ ngày đêm cày
nát ngọn đồi, tổ chức phản kích lại nhiều đợt tấn công của quân Mỹ. Quân Mỹ với
sự hỗ trợ của trực thăng vũ trang, máy bay ném bom napalm, súng phun lửa, pháo
không giật tiến tới rất chậm. Mỗi công sự, hầm hào chiếm được chúng đều phải trả
giá rất đắt. Các đơn vị ta cũng cơ động tổ chức đánh vào các bãi đáp trực thăng
của Mỹ, bắn rơi hoặc bắn hư hỏng nhiều máy bay trực thăng dù chỉ có vũ khí hạng
nhẹ và súng phóng lựu.
Sau nhiều ngày bị chặn
đứng, bắt đầu từ ngày 15, quân Mỹ thay đổi chiến thuật. Vừa dùng phi pháo đánh
ác liệt vào trận địa chốt, vừa dùng lực lượng cấp đại đội đánh vào các điểm cao
916, 900, nhằm bao vây cô lập Tiểu đoàn 8, sau đó dùng lực lượng lớn tấn công,
đánh chiếm A Bia.
Buổi sáng hai đại đội
Alpha và Bravo thuộc Tiểu đoàn 3/187 tiếp tục tổ chức tấn công lên đỉnh Đồi A
Bia. Chúng nhận được tin của các đơn vị thám báo có quân ta ém ở một sườn núi. Tên Tiểu đoàn Trưởng Honeycutt
cho quân tiến lên được vài chục mét rồi dừng lại. Honeycutt gọi máy bay ném
bom, máy bay trực thăng vũ trang bắn tên lửa. Sau đó hắn gọi pháo, cối bắn hàng nghìn quả đạn dọc bờ suối. Một đơn vị
của ta bị tổn thất nặng nề.
Khi hai đại đội Mỹ tiếp
tục tấn công lên chốt, chúng bị trúng mìn và lựu đạn, buộc phải lui xuống. Viên
chỉ huy tiểu đoàn lại tiếp tục gọi máy bay ném bom. Chúng dùng các loại hỏa lực
để bắn vào các hầm chốt của ta, Chúng chiếm được dẫy hầm thứ nhất nhưng không
thể tiến lên được vì lựu đạn của quân ta từ tuyến chốt trên liên tục lăn xuống.
Chúng lại gọi máy bay ném bom và xông lên. Lại bị quân ta đánh bật xuống. Chúng
lại gọi trực thăng vũ trang phóng tên lửa và vãi đạn xuống những căn hầm chốt.
Hai bên giáp chiến gần đến nỗi lính Mỹ cũng trúng bom đạn của chính chúng ném
xuống. Tuy nhiên chỉ huy Tiểu đoàn Dù vẫn ép hai đại đội tiến tới. Lên được tới
căn hầm tuyến thứ hai lính Mỹ phải đương đầu với một cơn bão đạn và lựu đạn.
Hai đại đội Mỹ tuyệt vọng buộc phải rút lui trong cơn mưa lớn.
Ở hướng bên, vào trưa
ngày 15/5, trực thăng Mỹ đổ Đại đội Bravo thuộc Tiểu đoàn 1/506 xuống điểm cao
916, đồng thời Lữ Dù 3 tung 2 tiểu đoàn vào hướng điểm cao 900, phối hợp đánh lấn
dần sang A Bia, cùng Tiểu đoàn 2/501 tổ chức phản kích. Hai bên giành giật nhau
suốt hai ngày liền. Quân Mỹ ba lần thay quân, lực lượng ta cũng vơi dần, hầm
hào sụt lở, không kịp củng cố. Các chốt của Tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng
chốt Đại đội 8. Tuy vậy phía ta vẫn giữ được A Bia.
Tiểu đoàn 8 bị cắt rời
khỏi đội hình trung đoàn. Ban chỉ huy tiểu đoàn hội ý quyết định để Đại đội 6
tiếp tục củng cố trận địa, đánh địch từ hướng bắc; rút Đại đội 7 ra tăng cường
cho chốt ở điểm cao 900, Đại đội 5 bổ sung cho chốt Đại đội 8, số còn lại làm lực
lượng dự bị. Đồng thời tiểu đoàn điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình
ngày một khó khăn, thương binh không chuyển được, đạn thiếu, lực lượng cơ động
không có. Chỉ có khả năng giữ đến sáng 17 tháng 5. Hướng rút lui phía nam A
Bia".
Lữ đoàn dù 3 Mỹ bị động
đối phó về mặt chiến thuật, từ chỗ chủ động lùng sục tìm diệt phải quay sang
đánh chiếm mục tiêu đúng như ý định của phía ta. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 ra lệnh
cho Tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ A Bia, thu hút đối phương, tạo điều kiện cho hai
tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa lực lật cánh sang phía nam A Bia, vận động
tấn công vào sườn quân Mỹ; trước mắt phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để
lập lại thế liên hoàn toàn trung đoàn.
-
Suốt hai ngày 16 và 17/5, vào khoảng 8h đến
9h18, quân Mỹ huy động nhiều tốp máy bay ném bom, bốn trận địa pháo bắn phá ác liệt lên các trận địa
chốt trên Đồi A Bia. Mặc dầu vậy hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 3/187 vẫn không thể
tiến lên được. Chúng cố thủ chờ Tiểu đoàn 1/506 ở hướng nam đánh lên để cùng phối hợp tấn công. 9h52 Đại đội
Alpha thuộc Tiểu đoàn 1/502 triển khai chiếm cao điểm 800, tiến về phía cao điểm
900. Nhiều trận đánh diễn ra liên tiếp trong khu vực đồi 900, 916 và phía nam A
Bia. Hai tiểu đoàn Mỹ vẫn không thể tiến lên được. Trung đoàn tập trung 16 khẩu
cối, B-40, B-41 và đại liên 12,7mm tập kích bất ngờ vào đại đội Mỹ ở Động Chuối.
9 giờ ngày 17 tháng 5, Đại đội 2 tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công 1 đại đội Mỹ ở
điểm cao 916, đánh bật quân Mỹ ở mỏm 1. Quân Mỹ bỏ mỏm 2 chạy dạt xuống chân điểm
cao, vấp phải chốt của Đại đội 5. Hai giờ chiều ngày 17/5, nhiều lính Mỹ ở 916
tử trận. Hành lang giữa 916 và A Bia đã khai thông. Đường sang Tiểu đoàn 8 lại
được mở. Chỉ huy lữ dù 3 chưa hay biết gì về số phận đại đội Mỹ trên điểm cao
916 nên vẫn cho trực thăng đổ quân tiếp ứng cho đại đội này, bị Đại đội 2 bắn
cháy 2 trực thăng chở binh lính Mỹ đi cùng.
Thời gian này, ở hướng
A Bia cũng diễn ra trận chiến đấu ác liệt. Mỹ cố đánh chiếm A Bia để gỡ thể diện
và để nhặt xác đồng đội tử trận suốt hai ngày. Sau khi cắt rời Tiểu đoàn 8 khỏi
đội hình Trung đoàn 3, Tiểu đoàn 2/501 và hai đại đội thuộc Tiểu đoàn 1/506 bâu
quanh các điểm cao trên A Bia thay nhau phản kích. Mỹ không dùng chiến thuật
"cơn sóng lớn áp đảo đối phương" nữa mà thực hiện chiến thuật
"sóng liên hồi" nhằm gây căng thẳng dẫn đến suy sụp về ý chí và tinh
thần, buộc phía ta phải mệt mỏi mà rút bỏ A Bia.
Trong hai ngày 16 và
17/5, các trận địa pháo Mỹ dọc đường số 12 đều hướng về Đồi A Bia trút đạn. Chúng
đã sử dụng cả đạn hóa học gây chảy nước mắt, nước mũi hòng phối hợp với bộ binh
tiến tới những căm hầm chốt của ta. Trận phản kích cuối cùng trong ngày 17/5 diễn
ra lúc 15 giờ. Quân Mỹ chia làm 4 mũi, dùng đạn hóa học đánh lên A Bia. Đến 16
giờ, 1 đại đội Mỹ được phi pháo yểm trợ tiếp tục tấn công lên chốt.
Trong lúc quân Mỹ tập
trung vào hướng các Đại đội 5 và 6 thì Đại đội 2, Tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công
vào sườn trái đội hình phản kích của 1 đại đội Mỹ, hất chúng xuống chân điểm
cao. Đợt phản kích cuối cùng của Mỹ lên A Bia trong ngày 17 đã thất bại.
-
Ngày 18/5, sau khi bị cầm chân nhiều ngày, chỉ
huy lữ đoàn Mỹ đã quyết định một cuộc tấn công phối hợp hai tiểu đoàn, Tiểu
đoàn 1/506 tấn công từ phía nam A Bia và Tiểu đoàn 3/187 tấn công từ phía bắc A
Bia, cố gắng hòng cô lập lực lượng ta. Mở đầu từ 8h đến 8h30 chúng ném bom phá
và bom napalm. Từ 8h30 đến 9h00 bốn trận địa pháo liên tục nhả đạn. Từ 9h05 đến
9h25 bắn đều đặn hỗ trợ bộ binh tiến lên. 9h25 cả hai tiểu đoàn Mỹ cùng xung
kích. Đại đội Delta thuộc tiểu đoàn 3/187 trườn tới gần ngọn đồi, nhưng bị quân
ta tập kích bằng B40 và AK, bị thương vong nghiêm trọng. Tiểu đoàn 1/506 cả buổi
sáng mới di chuyển được 100 mét lên phía đồi 900 và 916. Mỗi khi một đại đội Mỹ
di chuyển lên đều thì đều bị quân ta phản kích. Chúng điều máy bay phản lực thả 50 quả bom hóa học tấn công vào những căn
hầm chốt để tạo điều kiện cho các đại đội bộ binh tiến lên. Chúng gọi trực
thăng vũ trang sử dụng loại súng Minigun mỗi phút bắn ra 5000 viên đạn và tên lửa
bắn xối xả vào trận vào những căn hầm chốt. Mặc dầu vậy ba mũi tấn công từ cao
điểm 800 lên Đồi 900 vẫn bị quân ta đánh bật trở lại. Quân ta từ giao thông
hào, những căn hầm sâu vận động tấn công quyết liệt. Nhận thấy có thể bị tiêu
diệt hoàn toàn, chúng gọi máy bay ném bom napal trùm lên Đồi 900 như một quả cầu
lửa. Ngay cả lính Mỹ cũng cháy hết tóc và bị thương. Hướng tấn công của Tiểu
đoàn 3/187, từ bay trực thăng chỉ huy, Tiểu đoàn trưởng Honeycutt đã cố gắng chỉ
huy các đại đội tổ chức một cuộc tấn công cuối cùng, nhưng mây mù bao phủ. Một
trận mưa dữ dội làm giảm khả năng yểm trợ không quân buộc chúng phải kết thúc
trận đánh. Tiểu đoàn 3/187 một lần nữa phải rút lui xuống núi. Hai tiểu đoàn
khác cũng phải dừng lại cố thủ tổ chức phòng thủ đêm.
Bởi thương vong nặng nề trong hơn 1
tuần và chịu áp lực từ sự chú ý không mong muốn của báo chí, một số sỹ quan chỉ
huy Sư đoàn Dù đã xem xét việc ngừng các cuộc tấn công. Nhưng chỉ huy Lữ Dù và
chỉ huy các tiểu đoàn Dù cảm thấy mất mặt khi phải rút lui bởi một lực lượng đối
phương nhỏ bé. Tướng Zais sau khi cân nhắc quyết định vẫn tiếp tục tung vào trận
ba tiểu đoàn chiến đấu, bổ sung quân thay thế cho những đơn vị đã bị thương
vong nặng. Tiểu đoàn 3/187 thiệt hại nghiêm trọng, số bị loại khỏi vòng chiến đấu
chiếm hơn 60% quân số trong số 450 binh sĩ có kinh nghiệm. Hai trong số bốn chỉ
huy đại đội và 8/12 trung đội trưởng bị chết và bị thương (Đồi Thịt băm,
Zaffiri).
Về phía ta hai tiểu
đoàn đoàn 7 và 8 đã hoàn thành xuất sắc mục tiêu được giao là tiêu diệt một bộ
phận đáng kể lính Mỹ. Như chiến lược chung trong những trận đánh với Mỹ, phía
ta không cố gắng giành giật trận địa mà chỉ cố gắng gây thương vong tối đa cho
địch. Sau đó ta tổ chức rút lui để tránh bị hỏa lực và sức cơ động vượt trội của
Mỹ bao vây tiêu diệt. Kế hoạch ban đầu là rút vào đêm 17 nhưng các đơn vị đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ, kéo dài thêm được một ngày.
-
Đêm 18, phía ta bắt đầu tổ chức rút lui khỏi trận
địa, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nghi binh. Tuy Trung đoàn 3 rút nhưng cùng
lúc đó, Trung đoàn 1 Sư 324 lại được lệnh áp sát khu vực, kiểm soát các trục đường
chính tại thung lũng A Sầu và khu vực xung quanh A Bia. Cho nên thực tế trận
chiến còn kéo dài đến đầu tháng 8 mới kết thúc (Operation Apatche Snow,
Wikipedia; Hồi Ký Từ châu thổ sông Hồng đến sông Hương xừ Huế, Thiếu tướng Lê
Huy Mai)
-
Ngày 19/5, thêm 2 tiểu đoàn bộ binh được không vận
vào bãi đáp đông bắc và phía đông nam đồi A Bia. Cả hai tiểu đoàn ngay lập tức
di chuyển lên núi để tới các vị trí mà từ đó họ sẽ tấn công vào sáng hôm sau.
Trong khi đó, Tiểu đoàn 1/506 giữ ngày thứ ba liên tiếp để bảo đảm an toàn cho
điểm cao 900.
-
Sau 2 giờ ném bom phá, bom napalm và 90 phút bắn
hàng ngàn quả đạn pháo, 10h ngày 20/5, Liên quân Mỹ Ngụy tung bốn tiểu đoàn đồng
loạt tấn công lên đồi A Bia (937). Tiểu đoàn 3/187 được tăng cường thêm một đại
đội tấn công từ phía tây bắc. Tiểu đoàn 2/501 tấn công từ phía đông bắc. Tiểu
đoàn 2/3 Quân lực Việt Nam Cộng hòa tấn công từ hướng đông nam. Tiểu đoàn 1/506
tấn công từ hướng Tây nam. 12 giờ ngày 20/5, Tiểu đoàn 3/187 của Trung tá Honeycutt
lên tới đỉnh đồi A Bia. Đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ nghi binh còn lại của ta sau
khi nổ súng cầm chân quân Mỹ đã rút sang Lào theo kế hoạch. Quân Mỹ chiếm giữ điểm
cao 937 vào 17 giờ cùng ngày. Nhưng đến ngày 6/6/1969 binh lính Mỹ lại được lệnh
rút khỏi đồi A Bia (tài liệu đã dẫn).
Kết quả
Hai bên cùng tuyên bố
chiến thắng. Quân Mỹ sau đó rút đi, quân ta chiếm lại ngọn đồi vào ngày
7/6/1969. Theo tài liệu Mỹ, trong 10 ngày đêm chiến đấu, quân đội Mỹ thương
vong 474 người, một số trực thăng bị bắn rơi, một số bị trúng đạn hư hại. Quân
Mỹ tuyên bố các tiểu đoàn 7, 8 và 9 của Trung đoàn 3 bị tử trận 630 người (chưa
kể số bị thương). Phía ta công bố đã tiêu diệt và làm bị thương 1700 quân Mỹ Ngụy.
Trong thực tế, số liệu
hai bên công bố rất chênh nhau. Có thể người Mỹ chỉ tính số binh lính của họ chết
và bị thương trên đồi A Bia; còn ở địa điểm khác họ không thống kê vào. Phía
chúng ta cũng vậy (theo đồng chí quân lực Trung đoàn 3 Sư 324 ta hy sinh khoảng
120 và bị thương hơn 400, trong đó bị thương nặng khoảng 1/3 chiến sỹ), ta cũng chỉ nêu con số chết trên quả
đồi mà không công bố số hy sinh ở các địa điểm khác. Thực tế phía Mỹ công bố trong
suốt trận đánh, quân Mỹ chỉ thu được 89 vũ khí cá nhân và 22 vũ khí hạng nặng trên
đội A Bia (chỉ bằng 1/6 số chiến sỹ ta bị hy sinh như phía Mỹ tuyên bố).
Quân Mỹ hao tổn hàng
trăm sinh mạng để chiếm được một ngọn đồi trong thời gian 15 ngày. Thiếu tướng
John M. Wright lên nắm quyền chỉ huy Sư đoàn Dù 101 lặng lẽ ra lệnh rút khỏi A Bia ngày 5/6. Cùng
thời gia đó, các cuộc tranh luận về "Hamburger Hill" (Đồi Thịt băm)
diễn ra căng thẳng tại Thượng viện Hoa Kỳ, với những lời chỉ trích đặc biệt
nghiêm trọng của các thượng nghị sĩ Edward Kennedy, George McGovern, và Stephen
M. Young... Edward Kennedy gọi đây là "Cuộc hành quân điên rồ và vô trách
nhiệm. Sinh mạng của binh sĩ Mỹ đã bị phung phí chỉ để giữ thể diện nhà binh
cho các sĩ quan chỉ huy" (Đồi Thịt băm, Zaffiri). Tiếp theo là hàng chục
cuộc biểu tình, thả bóng đen rợp trời mang dòng chữ “Hamburger Hill trước nhà
trắng và Lầu Năm góc. Đó thực sự là một cuộc chiến trong lòng nước Mỹ để lại những
hậu quả hết sức nặng nề trong xã hội Mỹ.
Với ta, những kết quả
thu được trong trận đánh ở A Bia và đợt hoạt động phản công của Sư đoàn 324 ở
vùng thung lũng A Sầu đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào đánh phá "bình định"
đang phát triển ở các địa phương. Chiến thắng A Bia là mốc mở đầu cho giai đoạn
khôi phục lại thế trận xuống đồng bằng, lập lại thế ba vùng chiến lược (Lịch sử
chiến tranh chống Mỹ, Lịch sử Sư đoàn 324).
Theo cá nhân tôi, năm
mươi năm đã trôi qua, từ nhiều nguồn tài liệu, nhất là tài liệu của Mỹ, chúng
ta có thể khẳng định, chiến thắng A Bia vượt xa ý nghĩa của một trận đánh thông
thường. Phải đặt trận A Bia vào chuỗi 4 chiến dịch như đã trình bày ở phần trên,
để thấy nó không chỉ có giá trị về mặt quân sự, chính trị mà nó còn mang tầm
vóc lớn, tầm vóc chiến lược. Bởi vì chiến thắng A Bia đã làm thất bại tất cả những
mục tiêu như đã nêu của Mỹ Ngụy tại miền tây Thừa Thiên, làm thay đổi cục diện
chiến trường, buộc Mỹ phải ngừng thế chủ động “tìm diệt”. Sau thất bại trận A Bia, Lầu Năm góc chỉ thị quân Mỹ không được phép mở
những chiến dịch lớn, chỉ tấn công khi bị đe dọa. Tức là quân Mỹ hành động bị động
theo phương châm “phản ứng phòng vệ”. Chính phương châm hành động bị động
đó trên chiến trường miền Nam đã giảm biết bao xương máu của quân đội ta nửa
năm sau 1969 trở đi cho đến khi quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam (xem bài Chiến thắng
A Bia làm thay đổi cục diện chiến trường, cái nhìn từ hai phía của Nguyễn Duy
Huệ trong Kỷ yếu khoa học Chiến thắng A Bia tổ chức tại A Lưới, Thừa Thiên). Với
chiến thắng A Bia, chúng ta còn chôn vùi tham vọng kiểm soát vùng rừng núi Chiến
lược của Mỹ Ngụy (xem bài Thung lũng A Sầu, nơi chôn vùi tham vọng kiểm soát
vùng rừng núi của Mỹ Ngụy của Nguyễn Duy Huệ trong Kỷ yếu khoa học Chiến thắng
A Bia tổ chức tại A Lưới, Thừa Thiên). Chiến thắng A bia còn là một cuộc chiến
trong lòng nước Mỹ, một thảm họa tâm lý dẫn đến làn sóng phản đối chiến tranh
trên toàn nước Mỹ (xem bài A Bia, một cuộc chiến trong lòng nước Mỹ của Nguyễn
Duy Huệ trong Hội thảo khoa học chiến thắng A Bia tổ chức tại A Lưới, Thừa
Thiên).
Chiến dịch Montgomery Rendezvous (Điểm hẹn Montgomery)
Chiến dịch Montgomery Rendezvous được Liên
quân Mỹ Ngụy tiến hành từ ngày 6/6 đến ngày 15/8/1969. Ngày bắt đầu của chiến dịch
đúng vào ngày lính Mỹ rút khỏi đồi A Bia. Lực lượng tham gia của Mỹ Ngụy bao gồm
Lữ đoàn 3 thuộc Sư đoàn Dù 101 cùng một số đơn vị hỗ trợ. Về phía ta có các đơn
vị trực thuộc Quân khu Trị hiên, Trung đoàn 1 Sư 324 và lực lượng dân quân du
kích các xã tại Thung lũng A Sầu.
Bối cảnh
Chiến dịch Montgomery
diễn ra ngay sau chiến dịch Apatche Snow, một chiến dịch “khó khăn nhất, dữ dội
nhất, đẫm máu nhất, khủng khiếp nhất” đối với Sư đoàn Dù 101. Bộ chỉ huy Mỹ ở
miền Nam và Bộ chỉ huy Sư đoàn Dù 101 phải chịu rất nhiều áp lực từ chính giới
Mỹ, Quốc hội Mỹ và nhân dân Mỹ. Chính vì vậy từ Bộ chỉ huy Quân đoàn 24, Bộ chỉ
huy Sư đoàn Dù 101 đến Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 chỉ đạo chiến dịch này rất thận trọng.
Họ đều tính toán để giảm thiểu tối đa tổn thất của binh lính Mỹ.
Diễn biến
Ngày 8/6 Chiến dịch
Montgomery bắt đầu với những cuộc không kích, kể cả máy bay rải thảm B52. Tiếp
theo chúng huy động tất cả những trận địa pháo bắn phá vô cùng dữ dội vào những
điểm cao, những khu vực phía đông Thung lũng A Sầu mà trinh sát Mỹ nghi ngờ có
lực lượng của ta hoặc có các cơ sở hậu cần của ta. Sau đó các tiểu đoàn thuộc Lữ
đoàn 3 mới đổ bộ, tổ chức những cuộc càn quét các ngọn đồi, ngọn núi và khu vực
lân cận.
Ngoài việc tăng cường
quân số mở một loạt các cuộc càn quét, Sư đoàn Dù 101 còn tiến hành xây dựng một
con đường từ Trại Camp Eagle, căn cứ của Sư đoàn Dù 101 tại Phú Bài tới Thung
lũng A Sầu; đồng thời chúng còn mở rộng hai sân bay ở Tà Bạt, ở A Lưới để đảm bảo
công tác hậu cần cả đường bộ cũng như đường hàng không. Chỉ trong một thời gian
ngắn mấy tháng một con đường xuyên qua địa hình núi non hiểm trở tới Thung lũng
A Sầu đã được hoàn thành. Chín mươi chiếc xe bọc thép chở quân, một phi đoàn mấy
chục máy bay vận tải, máy trực thăng chở
lính Dù, lính Kỵ binh bay và quân của một
số đơn vị VNCH rầm rập tiến vào thung lũng, lên tận đồi A Bia. Đây là một nỗ lực
to lớn “trên con đường chinh phục A Sầu” (Operation Montgomery, Wikipedia; Đồi
Thịt băm, Zaffiri).
Phía ta, các đơn vị
phân tán bám sát các mũi tấn công của địch, liên tục tập kích vào đội hình địch,
lấy tiêu diệt, tiêu hao sinh lực địch, không tranh giành địa bàn, gây cho kẻ địch
nhiều tổn thất. Chúng ta còn tổ chức tấn công bằng cối, kết hợp với bộ binh vào
các căn cứ hỏa lực Fire Bases Currahee và Berchtesgaden và một số địa điểm
chúng vừa mới đứng chân gây nhiều tổn thất cho chúng.
Kết quả
Phía Mỹ tuyên bố chiến
dịch này hoàn toàn thắng lợi. Chúng công bố tiêu diệt được 393 “cộng quân”, xây
dựng được một con đường chiến lược cùng với việc mở rộng hai sân bay tại Thung
lũng A Sầu. Về phía chúng ta, các đơn vị tham gia đánh Mỹ được tuyên dương đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hiệu xuất tiêu diệt lính Mỹ cao.
Kết luận
Bốn chiến dịch lớn Liên
quân Mỹ Ngụy tấn công vào Thung lũng A Sầu từ đầu năm 1969 đến tháng Tám năm
1969, trước đó là hai chiến dịch cuối năm 1968, tất cả là những cố gắng tuyệt vọng
cuối cùng của Quân đoàn 24 Mỹ ở Vùng 1 chiến thuật nói riêng, của Bộ chỉ huy
Quân sự Mỹ ở miền nam nói chung. Nó là dấu chấm hết cho cuộc chiến tranh cục bộ
của Mỹ ở miền Nam tại Chiến trường Trị Thiên. Mục đích cuối cùng của Liên quân
Mỹ Ngụy trong nửa đầu năm 1969 là “tìm diệt” các lực lượng vũ trang của ta và
kiểm soát toàn bộ Thung lũng A Sầu, chuẩn bị tiền đề vững chắc cho Chiến lược
Việt Nam hóa chiến tranh.
Trái với những dự
tính chiến lược của Liên quân Mỹ Ngụy, những tổn thất to lớn của Quân đội Mỹ
qua các chiến dịch, đặc biệt là Chiến dịch Apatche Snow (Tuyết rơi trên đỉnh
núi Apat) mà lính Mỹ gọi là Đồi Thịt băm là một thảm họa không chỉ đối với ba
sư đoàn danh tiếng nhất của Quân đội Mỹ mà còn là một thảm họa đối với Chính
quyền Mỹ. Nhà học giả kiêm chiến thuật quân sự Mỹ, Đại tá Harry S. Summer đã viết
trong cuốn Niên lịch cuộc chiến tranh Việt Nam, Đồi Thịt băm “giống như cuộc Tổng Tấn công Tết Mậu Thân năm
1968, là một bước ngoặt lớn trong cuộc chiến tranh Việt Nam”.
Giới nghiên cứu sử học
trong và ngoài quân đội Việt Nam và các tướng lĩnh Việt Nam chưa bao giờ đánh
giá trận A Bia cao như vậy. Thậm chí nhiều người còn không biết đến trận A Bia
và các chiến dịch của Liên quân Mỹ Ngụy ở Thung lũng A Sầu. Trái lại với phía
việt Nam, phía Mỹ, phần đông những người Mỹ năm mươi năm trước, từ chính giới Mỹ
đến người dân Mỹ, từ những người lính đến sinh viên Mỹ, cho đến bây giờ họ vẫn
chưa quên ký ức về những chiến dịch đó với hàng trăm cuộc biểu tình phản đối
chiến tranh, hàng nghìn quả bóng đen thả trước Nhà Trắng tưởng nhớ những binh
lính trên Đồi Thịt Băm. Hàng ngàn binh lính Thủy quân Lục chiến đốt cờ Mỹ và
ném các loại huân đứng trước Lầu Năm góc…
Trước Đồi Thịt băm
quân đội Mỹ ở miền Nam thực hiện theo một nguyên tắc bất di bất dịch là gây “áp
lực tối đa”. Sau Đồi Thịt băm, Đại tá Summer viết, tình trạng Quân đội Mỹ ở miền
Nam “tương tự như những hạn chế được áp đặt trong những ngày cuối cùng của cuộc
Chiến tranh Triều Tiên. Tướng Abrams, Tổng chỉ huy các lực lượng quân Mỹ ở miền
Nam đã được lệnh phải tránh những chiến dịch có quy mô lớn như vậy”. Chiến lược
mới của Mỹ sau Đồi Thịt băm được mang tên “phản ứng phòng vệ”. Có nghĩa là để
giữ cho quân Mỹ ở miền Nam ở mức tổn thất thấp nhất, quân Mỹ chỉ chiến đấu khi
bị đe dọa. Rõ ràng trận đánh trên đồi A Bia đã làm thay đổi cục diện chiến trường.
Nói Quân đội Mỹ không
thu được kết quả gì ở Thung lung A Sầu là không đúng. Chúng đã chiếm được một số
điểm cao, đã gây nhiều tổn thất cho các lực lượng vũ trang của ta, phá hủy được
một số lượng nhất định sơ sở hậu cần của ta, xây dựng được cái cốt vật chất cho
Quân đội Ngụy quyền Sài Gòn thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh tại một số khu vực
trong Thung lũng A Sầu. Nhưng thực tế trên chiến trường miền nam nói chung, tại
Thung lung A Sầu nói riêng, Quân đội Mỹ phải thực hiện chiến lược “phản ứng phòng
vệ”. Tháng 7/1969, cha đẻ của các chiến dịch tấn công vào thung lung A Sầu,
Trung tướng Stiwel rời khỏi Việt Nam. Ngày 8/7/1969, theo lệnh của Tổng thống
Nixon 25.000 quân Mỹ đầu tiên rút khỏi miền Nam. Tiếp theo tháng 12/1969 là
35.000 quân Mỹ rút khỏi miền Nam.
Cuộc chiến tranh
chính thức chuyển cho Chính quyền Ngụy quyền Sài Gòn hay Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa. Quân Mỹ chỉ hỗ trợ tối đa Quân đội VNCH bằng hỏa lực. Và như vậy Liên quân
Mỹ Ngụy không thể có một lượng quân thường trực tương đương với một sư đoàn để
thực hiện những mục tiêu mà Tướng Stilwel và Bộ chỉ huy Quân sự Mỹ đề ra ở
Thung lũng A Sầu. Như vậy là sau nhiều Chiến dịch Liên quân Mỹ Ngụy phải chấp
nhận “quyền kiểm soát Thung lung A Sầu thuộc về Bắc Việt Nam”. Giấc mơ về Thung lung A Sầu của hai đời Tổng Tư lệnh quân
đội viễn chinh Mỹ ở miền Nam mãi mãi chỉ là một giấc mơ trong lịch sử (tài liệu
đã dẫn).
Ba chiến dịch còn lại
trong năm 1969 diễn ra từ ngày 14/8 đến 28/9/1969. Đó là chiến dịch Caronina Blaster, Richland
Square và Lousina Lee. Tất cả đều do Lữ đoàn 3 thuộc Sư Dù 101 và Sư đoàn 1
QLVNCH tiến hành tại Thung lũng A Sầu. Những chiến dịch này đều là “phản ứng tự
vệ” khi Quân đội Mỹ bị các lực lượng vũ trang của ta ở Thung lung A Sầu vây
hãm.
Trong năm 1970, Liên
quân Mỹ Ngụy chỉ mở 2 chiến dịch ở Thung lũng A Sầu. Đó là Chiến dịch Texas
Star (còn gọi là trận đánh trên cao điểm 935 Ripcord) và Chiến dịch Chicago
Peak. Hai chiến dịch này đều do Lữ đoàn Dù số 3 và Lữ đoàn Dù số 1 cùng với Sư
đoàn 1 QLVNCH tiến hành (xem chuyên luận về hai chiến dịch của Liên quân Mỹ Ngụy
trong năm 1970 tại Thung lũng A Sầu của tôi trong những tuần tới). Đặc biệt là
trận đánh trên cao điểm 935 Ripcord giữa Lữ đoàn Dù số 3 và Trung đoàn 1 Sư
324, một trận đánh đi vào lịch sử không thể nào quên của Quân đội Mỹ. Sau khi bị
ta bao vây và tấn công trong hơn 20 ngày, Lữ đoàn Dù số 3 đã phải tháo chạy. Tác
giả cuốn Đại bàng gào thét trong vòng vây viết: “Trước khi căn cứ Ripcord (935)
trở thành một Điện Biên Phủ của nước Mỹ, Sư đoàn Dù 101 đã làm cái điều mà Quân
đội Mỹ không bao giờ làm ở Việt Nam. Đó là việc rút khỏi trận đánh lớn, ra lệnh
di tản… Chiến thắng của kẻ thù là hoàn toàn tuyệt đối… Nó đã kết thúc kỷ nguyên
của Mỹ, trở thành ẩn dụ bi thảm cho toàn bộ cuộc chiến tranh ở Việt Nam”
(Screaming eagles under siege- Đại bàng gào thét trong vòng vây, Keith W.
Noland).
Trong cuộc chiến
tranh trường kỳ chống Pháp và chống Mỹ có lẽ không có một nơi nào trên đất nước
Việt Nam mà kẻ thù mở tới 12 chiến dịch như ở Thung lũng A Sầu. Theo một số sử
gia Mỹ, trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam có nhiều trận đánh có ý nghĩa
quyết định, nhưng có 5 trận đánh kinh điển, có tác động đến cục diện chiến trường,
làm ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Đó là trận đánh Ia Drăng, trận
Đắc Tô, Trận Khe Sanh, trận A Bia, trận 935. Trong 5 trận đánh trên thì 2 trận
đánh diễn ra ở Thung lũng A Sầu.
Có lẽ cũng không có một
địa danh nào trong cuộc chiến tranh chống Mỹ mà kẻ thù có nhiều sách viết về nó
như Thung lũng A Sầu. Bốn cuốn sách dày từ 200 đến 400 trang của bốn tác giả chỉ
viết về các chiến dịch ở Thung lũng A Sầu (xem sách đã dẫn). Đó là chưa kể đến
hàng trăm cuốn hồi ký của các tướng tá và các binh sỹ Mỹ viết về các chiến dịch
ở Thung lũng A Sầu. Hàng nghìn trang tài liệu về các báo cáo sau trận đánh của
các đơn vị tham gia các chiến dịch ở Thung lũng A Sầu ở các thư viện quân sự và
dân sự Mỹ.
Đại tá, Giáo sư Lịch
sử Mỹ Thomas R. Yarborough là tác giả của cuốn sách “Tinh thần dũng cảm ở A Sầu:
Những hoạt động tác chiến của Mỹ tại Thung lũng Tử thần từ năm 1963 đến năm
1971. Cuốn sách này, theo người Mỹ, tất cả những chính khách Mỹ, các sỹ quan
quân đội Mỹ và các sinh viên Mỹ và công chúng Mỹ nên để tâm đọc. Tác giả cuốn
sách còn đề cập tới trận Điện Biên Phủ ở
Thung lũng Mường Thanh, một trận chiến kéo dài 56 ngày đêm dẫn tới thất bại cay
đắng của người Pháp. Còn trận chiến ở Thung lũng A Sầu kéo dài tới 9 năm cũng
đã dẫn tới cái kết cục bi thảm cho số phận của người Mỹ.
Năm mươi năm đã trôi
qua, từ nhiều nguồn tài liệu của Mỹ, đã đến lúc chúng ta nên xem xét tới việc
trả lại giá trị cho những trận chiế tại Thung lũng A Sầu trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ cứu nước. Lịch sử chỉ diễn ra một lần, nhưng bổ sung lịch sử, viết lại
lịch sử có thể diễn ra nhiều lần. Đó là việc làm bình thường. Hy vọng rằng sau
kỷ niệm 50 năm chiến thắng A Bia, các nhà nghiên cứu lịch sử trong ngoài quân đội,
các khoa lịch sử các trường đại học cần nghiên cứu sâu thêm để Thung lũng A Sầu
không bị rơi vào quên lãng.