Giải mã hội Gióng Phù Đổng (phần 2)

Leave a Comment
Giải mã hội Gióng Phù Đổng (phần 2)
Bài viết trước tôi đã mô tả, lễ hội Gióng là một nghi lễ diễn xướng anh hùng ca của tập thể bốn làng Phù Đổng, Phù Dực, Đổng Viên và Đổng Xuyên, là biểu tượng của “cuộc chiến tranh nhân dân” thời xa xưa với hàng trăm vai diễn, tiến hành theo một kịch bản đã được chuẩn hoá. Ngoài ra các đạo cụ, y phục, mỗi một tiết mục, mỗi một vai diễn đều chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc. “Rước khám đường“ là trinh sát giặc. “Rước nước“ là để tôi luyện khí giới trước khi xuất quân. “Rước Đống Đàm“ là đi đàm phán kêu gọi hoà bình. Rước trận Soi Bia“ là mô phỏng cách điệu các trận đánh ác liệt.
Trong lễ hội người ta thấy có nhiều loại cờ, nhưng quan trọng nhất là lá cờ phướn màu đỏ. Trên lá cờ viết chữ “Lệnh“ tôn nghiêm cùng với các động tác múa cờ Lệnh của ông Hiệu Cờ là biểu đạt một số quan điểm cơ bản của phép luỵện binh. Đó là quân lệnh phải nghiêm minh. Binh pháp phải mưu lược, sáng tạo (Múa cờ nghịch và múa cờ thuận). Đội quân phù giá 120 người, đội quân chính quy, linh hồn của các thứ quân trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Viêt là những người đóng khố, cởi trần, đầu đội mũ có hình quả dưa. Trên mũ có đính chín con rồng nhỏ, tượng trưng cho Đất. Trên vai mỗi chiến binh đeo túi hình bán nguyệt, tượng trưng cho Trời. Tay họ cầm quạt giấy màu nâu lúc thì cụp, lúc thì xòe, tượng trưng cho một loại vũ khí có sức biến ảo khôn lường.
Cả một không gian sắc màu hòa quyện trong tiếng trống, chiêng, tù và với đủ cung bậc âm thanh. Nó không chỉ gợi lên không khí trận mạc cổ xưa mà còn tạo ra xúc cảm thẩm mỹ trước vẻ lung linh, kỳ ảo đẹp đến nao lòng. Đặc biệt trong lễ hội còn có những hiện tượng kỳ lạ: 28 cô gái trẻ đẹp đóng vai tướng giặc tượng trưng cho 28 đạo quân xâm lược nhà Ân; các màn rước lễ “Kén Tướng“, “Kén Phù Giá“, màn diễn săn hổ, bắt hổ, giúp hổ hoá thân… Tất cả khiến người xem hội suy ngẫm, lý giải với những quan điểm thẩm mỹ khác nhau.
Thế nhưng tất cả những điều chúng ta thấy trong lễ hội cùng với những cảm nghĩ khi đi xem hội vẫn chỉ là cái bên ngoài. Ẩn đằng sau “cái chúng ta đang thấy” trong lễ hội là những lớp trầm tích văn hóa. Nếu chúng ta hiểu thì sẽ thấy thật thú vị. Tìm hiểu nguồn gốc lễ hội làng Phù Đổng, các nhà khoa học xã hội xác định lễ hội này ban đầu là lễ hội mùa nông nghiệp, mang tính phồn thực (Nguyến Văn Huyên 1938, Nguyễn Đổng Chi 1958, Cao Huy Đỉnh 1969, Trần Quốc Vượng 1995). Trải qua thời gian, lễ hội này biến đổi, kết hợp với huyền thoại Thánh Gióng, người anh hùng chống giặc ngoại xâm, một biểu tượng của tinh thần dân tộc và đã tạo thành một lễ hội đặc sắc nhất của Việt Nam, hội tụ nhiều nét đặc trưng văn hóa của Việt Nam.
UNESCO đã vinh danh lễ hội Gióng là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Lễ hội Gióng mà trung tâm là biểu tượng Thánh Gióng đã vượt ra khỏi tầm vóc quốc gia để đi vào đời sống văn hóa của nhân loại. Nếu chỉ có phần “nổi”, phần chúng ta đang nhìn thấy tôi nghĩ chưa chắc người ta đã xét duyệt vào hàng đi sản thế giới. Ngoài việc hội Gióng “đã ăn sâu trong đời sống của các cộng đồng cư dân vùng châu thổ sông Hồng như một phần bản sắc, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên một dòng chảy liên tục”, nó còn hội tụ nhiều nét đặc trưng văn hóa của Việt Nam.
Tiếp theo, tôi muốn tập hợp thêm một số những kiến giải hay giải mã văn hóa của các nhà khoa học xã hội từ trước đến nay, đặc biệt qua cuốn Lễ hội cộng đồng: Truyền thống và biến đổi 2014 để tìm hiểu về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của hội Gióng và Thánh Gióng để chúng ta cùng suy ngẫm, thấy được cái hay, cái đẹp của lễ hội. Chẳng hạn có một loạt các biểu trưng văn hóa trong hội Gióng như “danh từ Gióng”, nghi thức “múc nước” và “rước nước”, “ngựa sắt”, “bạch mã”, “28 tướng nữ”, “ba ván nghịch, ba ván thuận”, “làng áo đỏ”, “làng áo đen”…
Ngoài nghĩa thực mà tôi đã đề cập nó còn hàm ẩn thông điệp gì? Đồng thời phải “giải ảo” các huyền tích và huyền sử về Thánh Gióng như thế nào?
Hội Gióng mồng Chín tháng Tư là thời điểm lúc kết thúc các hội xuân, kết thúc lúc nông nhàn. Thời điểm này người dân bước vào mùa làm ruộng, vụ chính trồng lúa đầu mùa mưa ở vùng đồng bằng Bắc Bộ ngày xưa. Theo người dân Phù Đổng, trước hội bao giờ cũng có trận mưa giông lớn. Người làng nói đó là ông Đổng (ông Gióng) về hái cà. Người dân thường lấy cành tre, vót đầu thành bông hoa tre nhuộm màu để cắm vào các ruộng cà, Tại sao người ta làm như vậy? Người dân quê xung quanh khu vực đó còn gác “nõ nường”, bộ phận sinh thực khí nam nữ lên giàn bầu bí để chúng ra nhiều quả. Tre vót đầu thành túm xơ là hình tương linga (sinh thực khí nam). Đó là dấu tích của tín ngưỡng phồn thực: Ước nguyện vạn vật sinh sôi nảy nở.
Người dân Phù Đổng cho rằng những cơn mưa giông đầu mùa sau những ngày nóng oi ả vừa là rửa đền ông Gióng, vừa là điềm may. Có mưa trong lễ hội thì việc cày bừa cấy hái vụ mùa sẽ gặp thuận lợi. Cao Xuân Đỉnh có lý khi gán các các danh từ: Đổng, Gióng/Dóng với Dông/Giông, cái tên của ông Gióng gắn liền với một vị thần thiên nhiên, giống như hiện tượng các làng thờ thần mây, mưa, sấm, chớp trong hệ thống “Tứ Pháp”: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện mà người dân ở dọc sông Đuống, sông Hồng vẫn thờ tự (Tôi sẽ đề cập đến lễ hội cầu mưa qua lễ rước pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp điện của liên làng huyện Văn Lâm, Hưng Yên trong bài viết sau).
Trần Quốc Vượng thì cho rằng nghi thức “múc nước” và “rước nước” ở hội Gióng nguyên thủy là nghi lễ nông nghiệp, giống như tết Pi May của Lào, tết Timây của Cămpuchia gắn liền với nghi thức té nước. Đó là tín ngưỡng cầu mưa. Mưa giông đầu tháng tư mở đầu mùa vụ là “tết mưa giông”. Còn tết cơm mới, xôi mới tháng Mười là kết thúc mùa vụ. Các nhà khoa học nông nghiệp đã chứng minh lúa mùa cổ xưa nhất của cư dân Việt là trồng vào đầu mùa mưa:
Tháng Tư cày vỡ ruộng ra
Tháng Năm gieo mạ chan hòa nơi nơi
Một vết tích từ thời Kỳ Đông Sơn còn tồn tại trong hội Gióng là tục thờ mặt trời. Chúng ta thử hình dung ngôi sao (mặt trời) trên trống đồng Đông Sơn với cảnh bầy chim bay ngược chiều kim đồng hồ sang cảnh con ngựa sắt trong huyền tích Gióng phi ngược chiều kim đồng hồ. Con ngựa sắt khạc lửa phi về Đông, rồi từ Đông phi về Tây (về Sóc Sơn, nơi Gióng bay về Trời). Đó là biểu hiện sự vận động của mặt trời (huyền tích ở đền Bạch Mã ở Hà Nội kể rằng Thần cưỡi ngựa đi từ Đông sang Tây, rồi lại trở về Đông và biến mất trong đền, để lại các vết chân ngựa. Vua Lý Thái Tổ dựa theo đó mà xây dựng thành Thăng Long. Đó là vết tích của Đông Sơn trong nghi thức thờ mặt trời. Nghi thức giết ngựa trắng tế thần còn tồn tại đến đầu nhà Lê, thế kỷ 15 và được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư).
Làng “áo đỏ” trong hội Gióng, lá cờ Lệnh đỏ, sắc phục đỏ của các “Ông Hiệu” đều là biểu tương của mặt trời. Và như vậy, làng “áo đen” là tượng trưng cho bóng đêm đối lập với sắc đỏ của mặt trời ban ngày. Còn Ông Gióng khổng lồ cưỡi ngựa sắt là biểu tượng của mặt trời. 28 nữ tướng của giặc Ân là biểu tượng của “Thần Đêm”. Con số 28 là biểu tượng của “Nhị thập bát tú”, 28 vì sao của bốn phương trên bầu trời đêm. Người xưa chọn nữ tướng vì nữ tượng trưng cho Âm. Đối lập với Ông Gióng tượng trưng cho Dương. Tục thờ “Mặt Trời” (Ông Gióng và Ngựa Gióng) được biểu hiện qua nghi thức rước Bạch Mã về Đông (Đống Đàm, Soi Bia) rồi mới rước lại về Tây, tức là về đền.
Việc diễn trận “ba ván cờ nghịch”, “ba ván cờ thuận” cũng là biểu tượng vận động của “Mặt Trời”. Lá cờ đỏ tượng trưng cho mặt trời, xoay thuận nghịch là tượng trưng sự vận động của mặt trời từ đông sang tây lúc ban ngày, và từ tây trở về đông lúc ban đêm. Phải có đầy đủ ba ván thuận nghịch mới diễn tả đầy đủ sự vận động của mặt trời trong không gian, trong tâm thức dân gian.
Cuối cùng là nghi thức chém tượng trưng nữ tướng nhà Ân trong đền, lấy đầu là mũ, lấy da là áo để lại trong đền cũng mang ý nghĩa cầu mưa. Chém tướng giặc đồng nghĩa với việc triệt tiêu các vị tinh tú. Sao lặn và mưa rơi mang nước tưới cho đồng ruộng… Các nhà khoa học, đứng đầu là Trần Quốc Vượng cho rằng huyền tích về Thánh Gióng khởi thủy là huyền tích về mặt trời. Hội Gióng khởi thủy là là nghi lễ nông nghiệp cầu mưa. Trải qua hàng ngàn năm, lớp văn hóa này trở thành trầm tích trong lễ hội Gióng tôn thờ người anh hùng đánh giặc ngoại xâm. Vậy thì quá trình đó diễn ra từ bao giờ? Như thế nào? Trong cuốn Lễ hội cộng đồng: Truyền thống và biến đổi Nxb ĐHQG Tp HCM, các nhà nghiên cứu đã đề cập và luận giải về vấn đề trên khá thấu đáo.
Trong cuộc hội thảo quốc tế diễn ra hai ngày 16-18/12/2013 tại Hồng Kông, tập thể các tác giả Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, trong đó có tác giả Đinh Hồng Hải đã tham luận bài “Lễ hội làng Phù Đổng, từ một lễ hội nông nghiệp biến thành một lễ hội quốc gia” và từ một nhân vật huyền thoại được “lịch sử hóa” hóa thành một vị anh hùng. Nhìn chung các tác giả đã tìm hiểu khá kỹ nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển biểu tượng Thánh Gióng trong văn hóa Việt Nam, cũng như vai trò của biểu tượng này trong lịch sử chiến tranh giữ nước của người Việt. Mấy trăm trang sách của các tác giả tôi xin được gói gọn lại trong vài đoạn để chúng ta có thể hình dung một cách đại thể về quá trình phát triển biểu tượng Thánh Gióng.
1. Vua Lý Công Uẩn là người đầu tiên đã ban hiệu, sắc phong cho một vị thần thổ địa bên cạnh chùa Kiến Sơ Phù Đổng là Xung Thiên Thần Vương/Tì Sa Môn Thiên Vương, một vị thần hộ quốc có nguồn gốc từ Ấn Độ (thần có tên tiếng Phạn là Vaisravana). Đó là tiền thân của Thánh Gióng. Vua Lý Công Uẩn không những là người đầu tiên ban tước hiệu và quốc gia hóa một vị thần địa phương có công đánh giặc Ân trở thành một vị thần hộ quốc mà còn là người cho xây dựng mở mang đền thờ Gióng.
2. Đây là cách để nhà vua và triều đại nhà Lý, Trần trong suốt mấy trăm năm khẳng định uy quyền, là cách tạo thế đối trọng với văn hóa Trung Hoa (văn hóa Trung Hoa là văn hóa của Khổng giáo, văn hóa của Đại Việt thời Lý là văn hóa của Phật giáo), là cách thức nuôi dưỡng tinh thần chiến đấu của người Việt trước họa xâm lăng của Đại Hán, là biểu tượng của nền độc lập tự chủ của Đại Việt.
3. Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 15 là quá trình khẳng định ý thức dân tộc. Quan niệm về quốc gia đã được hình thành và xác lập qua các triều đại Lý, Trần, Lê, qua những cuộc chiến tranh chống quân xâm lược: Tống, Nguyên, Minh. Năm thế kỷ này cũng là năm thế kỷ hình thành và phát triển biểu tượng Thánh Gióng trong truyền khẩu, trong các văn bản qua các thời kỳ, qua các triều đại (Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích/trích quái, Đại Việt sử ký toàn thư, thần tích, thần phả và hàng nghìn sắc phong của các triều đại suốt năm thế kỷ). Với thời gian Thánh Gióng đã trở thành biểu tương văn hóa, biểu tượng sinh động nhất và đặc sắc nhất của chủ nghĩa anh hùng, tinh thần dân tộc, tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của người Việt.
4. Thánh Gióng từ một nhân vật huyền thoai (không có lai lịch) trở thành nhân vật có gia đình, quê hương bản quán và được đưa vào lịch sử thành văn của người Việt…
Để kết thúc bài viết về lễ hội này, tôi xin trích dẫn một đoạn trong một bài tham luận tai cuộc hội thảo quốc tế về lễ hội Gióng: “Biểu tượng Thánh Gióng sẽ còn là một đối tượng nghiên cứu hấp dẫn không chỉ ở Việt Nam (tầm quốc gia) mà còn ở tầm quốc tế vì chính biểu tượng này đã kết nối các nền văn hóa Ân Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Tây Tạng, Khotan, Nepal, Bhutan cùng qua một biểu tượng: Kubera/ Vaisravana/Đa Văn Thiên/Tì Sa Môn Thiên Vương/ Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng).

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.