Quan hệ Mỹ-Trung sẽ đi về đâu (phần 2)

Leave a Comment

  Quan hệ Mỹ-Trung từ năm 2010 đến hết năm 2016.

Sự thay đổi chiến lược của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Trước và sau năm 2010 có một số nhà hoạch định chiến lược Trung Quốc muốn đi theo con đường của Đặng Tiểu Bình, đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc kinh tế lớn nhất, nhưng sẽ không tranh bá. Lịch sử các cường quốc trong quá khứ như Đế quốc La Mã, Đế quốc Nguyên Mông mà Trung Hoa là một phần, Đế quốc Anh và gần đây nhất là Liên Xô… Tất cả đã cho Bắc Kinh nhiều bài học cay đắng về số phận của những “anh cả” trên trường quốc tế. Những người theo quan điểm này muốn Bắc Kinh thực hiện một chiến lược lâu dài: Hợp tác, canh tranh và tránh xung đột với Mỹ. Họ khuyến cáo phải hết sức thận trọng, tránh đối đầu trực tiếp với Mỹ cho đến khi tiềm lực kinh tế và quân sự của họ thay đổi về chất và ở trong tình trạng đã hoàn toàn sẵn sàng. Họ cho rằng trước mắt Trung Quốc cần trỗi dậy một cách an toàn ở châu Á mà không gây ra bất kỳ xung đột nghiêm trọng nào ở khu vực.
Từ khi Tập Cận Bình nắm chính quyền, ông ủng hộ chủ nghĩa dân tộc, siết chặt xã hội dân sự, tăng cường cải cách và chống tham nhũng. Ông và ban lãnh đạo cho rằng tình hình thế giới đã có lợi cho Trung Quốc. Nhất là sau khủng hoàng tài chính 2007-2008, nước Mỹ có một số biểu hiện suy yếu. Bắc Kinh quyết định chấm dứt thời kỳ ẩn náu, bước vào thời kỳ thể hiện nước lớn, chuẩn bị cho thời kỳ phát triển trưởng thành. Bắc Kinh bắt đầu nóng vội đẩy nhanh “giấc mơ Trung Hoa vĩ đại”.
Trên trường quốc tế, Bắc kinh hành động tự tin đến tự mãn, quyết đoán đến hung hăng, bất chấp mọi thủ đoạn để thực hiện được các mục tiêu đề ra. Chính sách của Bắc kinh dựa trên hai trụ cột chính: Sức mạnh kinh tế và vị thế quốc tế; từ bỏ chính sách “giấu mình chờ thời”, thực hiện chính sách bành trướng cứng rắn ở Hoa Đông, Biển Đông, gây áp lực với Nhật Bản, Việt Nam, Philippines; tăng cường ảnh hưởng ở Myanma, Lào, Campuchia; thiết lập quan hệ kiểu mới với các nước lớn…
Theo quy luật lịch sử, giữa một cường quốc đứng đầu và một cường quốc có tham vọng thay thế, nhiều khả năng dẫn đến chiến tranh. Ngay ở Trung Quốc nhiều người cũng đặt vấn đề chiến tranh Trung-Mỹ là không thể tránh khỏi. Trên thực tế, giới quân sự diều hâu Trung Quốc đã lên kế hoạch đánh chiếm Đài Loan, thu hồi toàn bộ Biển Đông bằng cây gậy và củ cà rốt. Đúng là Trung Hoa đang nổi lên và trở thành một cường quốc lớn sau nhiều thế kỷ bị ngoại bang xâm chiếm và chia cắt. Bắc Kinh đã và đang thách thức Mỹ, các cường quốc châu Á và các quốc gia láng giềng về năng lực phòng thủ cũng như tấn công của họ.
Về kinh tế, Tập đưa ra Sáng kiến Vành đai và Con đường lấy Trung Quốc là trung tâm để mở rộng ảnh hưởng của Trung Quốc ra toàn cầu. Về Chính sách đối ngoại Tập thực thi đường lối quyết đoán trong quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc, tuyên bố chủ quyền toàn bộ Biển Đông...
Bắc kinh đang đi chênh vênh giữa hai chính sách diều hâu và ôn hòa. Trước mắt họ đang tìm cách gây áp lực với Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản; tìm cách áp đặt ý chí và đưa Đông Nam Á vào vòng ảnh hưởng. Họ sử dụng các phương tiện phi đối xứng như bồi đắp tôn tạo các rạn đá ở Biển Đông, mở rộng khu vực hải quân và không phận bên cạnh việc tuyên bố chủ quyền lịch sử để khẳng định sức mạnh và lợi ích của mình. Họ có đòn bẩy kinh tế, có khả năng quân sự. Họ đã phô diễn sức mạnh cơ bắp. Vấn đề là họ sẽ đi xa đến đâu và kết quả cuối cùng trong việc thay đổi cán cân quyền lực sẽ diễn ra như thế nào ở châu Á-Thái Bình Dương.
Năm 2014 Trung Quốc thông qua Chính sách phát triển về biển mang đặc sắc Trung Quốc, thể hiện khát vọng trở thành cường quốc biển để đối đầu với Mỹ. Có nhiều dấu hiệu chắc chắn cho thấy Trung Quốc đã, đang và sẽ đi theo con đường phát triển truyền thống của các cường quốc trong lịch sử như Tây Ban Nha, Anh, Nga, Nhật, Mỹ: Phát triển sức mạnh biển với lực lượng hải quân là trung tâm theo điều kiện, hoàn cảnh của Trung Quốc. Họ không chỉ tập trung vào hải quân và thương mại như các cường quốc trước đây mà còn quyết tâm xây dựng một chiến lược biển toàn diện, phối hợp nhiều lực lượng như hải cảnh, tuần duyên, lực lượng dân sự đánh cá hùng hậu. Họ có ý định phát triển chiến lược biển thành một cuộc chiến tranh nhân dân trên biển; ra sức tôn tạo xây dựng các đảo và bãi đá ngầm thành các căn cứ quân sự… Tất cả nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp giành lấy lợi thế chiến lược trước các cường quốc trong và ngoài khu vực, đẩy Mỹ và các cường quốc khác ra khỏi Biển Đông, đồng thời ép các nước nhỏ trong khu vực phụ thuộc vào ý chí của Trung Quốc.
Về Quân sự, để chống lại một cuộc tấn công giả định của Mỹ và các đồng minh vào các khu vực trọng điểm kinh tế phía đông, Trung Quốc đã xây dựng chiến lược chống tiếp cận (Anti-Access/ Area Denial-A2/AD). Rút kinh nghiệm bài học về khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ 3, Mỹ đưa nhóm tàu sân bay đến bảo vệ Đài Loan vào năm 1996-1997, buộc Trung Quốc phải xuống thang, cùng với những nghiên cứu kỹ về cuộc chiến của Mỹ ở Nam Tư, Afganistan, Iraq, giới quân sự Trung Hoa cho rằng lực lượng không quân và hải quân là át chủ bài để Mỹ và các nước đồng minh tiến hành các cuộc chiến tranh “không tiếp xúc, không giới tuyến, không cân xứng”. Ba nội dung trên là đặc điểm của các cuộc chiến tranh trên thế giới trong điều kiện số hóa, trong đó sức mạnh không quân, hải quân cùng với khái niệm không gian vũ trụ và không gian mạng là rất cần thiết để giành thắng lợi nếu chiến tranh xảy ra.
Giải phóng quân Nhân dân Trung Quốc đã đẩy mạnh nỗ lực phát triển khả năng chống tiếp cận (A2/AD) cả ở trên không, trên biển nhằm ngăn chặn, đánh bại Mỹ và các đồng minh của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương trong một cuộc chiến trên không, trên biển nhằm vào bờ biển phía đông nước này. Để đạt được mục tiêu, chiến lược A2/AD của Trung Quốc bao gồm quy mô chiến lược và chiến thuật.
Ở quy mô chiến lược, Bắc Kinh triển khai cái gọi là ba cuộc chiến tranh: Pháp lí, dư luận công chúng và chiến tranh tâm lí. Mục đích là phủ nhận tính hợp pháp của các lực lượng Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương, đẩy Mỹ ra khỏi khu vực để kiểm soát tất cả các nước ven biển Đông Á. Thực hiện chiến lược này, Trung Quốc không chỉ nhằm vào Mỹ mà còn nhằm vào các đồng minh của Mỹ và các đối thủ ở châu Á-Thái Bình Dương, thuyết phục các nước ven biển không cho các lực lượng của Mỹ tác chiến trong không phận và hải phận. Họ cũng đe dọa các nước cho phép Mỹ sử dụng các căn cứ quân sự nhằm ngăn chặn và phá hủy các khả năng triển khai của các lực lượng Mỹ ở khu vực.
Ở quy mô chiến thuật, chiến lược A2/AD liên quan đến các hệ thống tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cố định (CSS4) có tầm vươn tới bất kỳ mục tiêu nào trên lãnh thổ Mỹ; tên lửa DF-31A có thể tấn công di động vào các mục tiêu trên Thái Bình Dương; các loại tên lửa chống hạm, chống tàu, hệ thống tàu ngầm các loại, hệ thống tàu tên lửa các loại, kể cả vũ khí tấn công siêu thanh luôn trong trạng thái thường trực. Đặc biệt chương trình không gian mà Bắc kinh tiến hành không phải vì mục đích hòa bình mà nhằm chống lại các đối thủ trong trường hợp xảy ra xung đột. Không quân Mỹ tiết lộ khoảng hơn 500 vệ tinh nước này bị đe dọa từ chương trình “công nghệ phản không”, chương trình phản kích trong không gian của Trung Quốc… Có thể nói chiến lược A2/AD về quy mô chiến thuật, Trung Quốc đã thành công và thật sự là một thách thức đối với giới quân sự Mỹ.
Chiến lược mới của Mỹ dưới thời Chính quyền Barack Obama.
Trong thập niên đầu của thiên kỉ mới, Mỹ đã nhiều lần cảnh báo về chính sách kinh tế, quốc phòng của Trung Quốc. Trên thực tế Trung Quốc vẫn chưa tìm cách thay đổi trật tự thế giới sau Chiến tranh Thế giới thứ 2; không đem quân đi can thiệp ở bất cứ nơi nào; không dùng vũ lực giải quyết vấn đề Đài Loan; không giải quyết xung đột bằng vũ lực và đặc biệt là không thách thức vị thế toàn cầu của Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ luôn xem Trung Quốc là đối thủ đe dọa vị thế kinh tế, quân sự. Và Mỹ bắt đầu hành động.
Phát súng đầu tiên nổ ra vào ngày 21/10/ 2010 khi Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố “Chúng tôi đã trở lại châu Á”. Sau đó bà khẳng định Mỹ có “lợi ích quốc gia” tại Biển Đông và Mỹ ủng hộ Tuyên bố ứng xử về Biển Đông giữa ASEAN và Trung Quốc năm 2002 tại cuộc họp các nước ASEAN với các đối tác tại Hà Nội. Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì khi đó đã bỏ hội nghị để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào Biển Đông. Tiếp theo vào tháng 10/ 2011 Mỹ tuyên bố thực hiện chính sách xoay trục, chuyển 60% nguồn lực quốc phòng về khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Ngoại trưởng Mỹ Clinton viết, nước Mỹ bắt đầu “chuyển hướng chiến lược sang khu vực này… nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo thế giới”.
Ngoại trưởng Mỹ đã nói trước chính giới Mỹ“chúng ta không phải gửi đi một thông điệp vô cớ đến Trung Quốc mà thể hiện sự chắc chắn trong quan điểm của chúng ta”. Nếu Trung Quốc đi quá xa, nước Mỹ sẽ hành động. Đáp trả việc Trung Quốc áp đặt vùng nhận diện phòng không chồng lấn lên các nước đồng minh Hàn Quốc và Nhật Bản (Air Defense Identification Zone- ADIZ) ở Hoa Đông tháng 11/ 2013, Mỹ đã điều máy bay B52 bay vào ADIZ của Trung Quốc. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel trong chuyến công du châu Á cũng tuyên bố việc bảo vệ Senkaku là điều hiển nhiên vì nó nằm trong Hiệp ước Quốc phòng Mỹ-Nhật. Đó là những thông điệp mạnh mẽ kể từ khi Mỹ thực hiện chính sách tái cân bằng.
Sự gia tăng căng thẳng với Việt Nam và Philippine của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông khiến Mỹ và philippines ký các hiệp ước quân sự, trong đó có Căn cứ Hải quân Subic và Căn cứ Không quân Clark; đồng thời khiến Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương cho Việt Nam. Và chưa đầy một tuần sau Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế bác bỏ đường chín đoạn lưỡi bò và quyền lịch sử của Trung Quốc năm 2016, Hải quân Mỹ đã đưa chiến đấu cơ và các máy bay tác chiến điện tử tối tân và quân nhân đến Philippines. Đồng thời Mỹ cũng triển khai máy bay ném bom tàng hình có khả năng mang bom nguyên tử B-2 đến đảo Guam để thực hiện các nhiệm vụ tấn công “bất cứ lúc nào và bất cứ nơi nào có lệnh”.
Rõ ràng chúng ta thấy quan hệ Mỹ-Trung nóng lên từng năm cùng với sự gia tăng căng thẳng của Trung Quốc ở Hoa Đông và Biển Đông. Nếu như trong thập niên 90 của thế kỷ trước và trong những năm 2000, mâu thuẫn hai nước chủ yếu chỉ là vấn đề kinh tế, dân chủ, nhân quyền, tự do tư tưởng… thì từ năm 2010 trở đi hai bên đã hành động trên tất cả các mặt trận dẫn đến những mâu thuẫn ngày một căng thẳng về chính trị, quân sự, ngoại giao. Cả hai bên đều bắt đầu tập hợp lực lượng, phương tiện và động chạm đến những “lợi ích cốt lõi của nhau”. Chưa thấy có dấu hiệu nào tỏ ra có sự thỏa hiệp và hòa hoãn giữa hai bên.
Những động thái đáng chú ý của Trung Quốc.
Bắc Kinh tiếp tục gây căng thẳng ở Hoa Đông và Biển Đông. Đặc biệt là ở Biển Đông. Họ vẫn tiếp tục hoàn thiện, đưa vào sử dụng các căn cứ tôn tạo ở Biển Đông, đồng thời có dấu hiệu đang tiếp tục mở rộng thêm sau khi bác bỏ Phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế. Bắc Kinh muốn tự đặt ra luật chơi. Lợi dụng nguyên tắc đồng thuận chết người của ASEAN, Trung Quốc thực hiện chính sách chia để trị. Họ dùng đòn bẩy kinh tế để “mua” Campuchia, ngăn ASEAN ra tuyên bố Biển Đông và tuyên bố về Phán quyết của Tòa Trọng tài ở Biển Đông. Kết quả ASEAN, tổ chức bảo vệ quyền lợi của 10 quốc gia Đông Nam Á không thể ra tuyên bố chống lại họ. Bằng thủ đoạn kinh tế, bằng chiến tranh tâm lý, bằng hành động quân sự, bán quân sự, lực lượng tầu đánh cá dân sự Trung Quốc muốn các quốc gia láng giềng hiểu, nếu đi ngược ý chí của Trung Quốc thì cái giá phải trả sẽ không thể chịu đựng nổi. Liệu Trung Quốc có thắng được cuộc chiến với các nước xung quanh trước khi bước vào cuộc chiến quyết định với Mỹ trong tương lai?
Cuộc chiến của Trung Quốc áp đặt luật chơi của mình với các nước đồng minh của Mỹ ở Đông Bắc Á (Hàn Quốc, Nhật Bản), kể cả Bắc Triểu Tiên và thống trị các nước Đông Nam Á, độc chiếm Biển Đông có lẽ là một trong những ý tưởng và hành động ngông cuồng mới nhất trong “giấc mơ Trung Hoa vĩ đại”. Liệu Bắc Kinh có thực hiện con đường trỗi dậy an toàn ở châu Á? Chỉ biết tranh chấp lãnh thổ, lãnh hải cùng với việc củng cố các yêu sách, tuyên bố chủ quyền phi lý, Trung Quốc phải đương đầu với sự phản ứng của hầu hết các quốc gia có vùng biển liên quan tới Trung Quốc từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Philippines, Việt Nam đến Malaysia, Indonêsia…
Trước mắt Trung Hoa chưa đối đầu với Mỹ. Nhưng chắc chắn Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ mục tiêu địa chính trị đối với vùng lãnh thổ Đài Loan, Quần đảo Senkaku, gây áp lực với các đồng minh của Mỹ hoặc từ bỏ tuyên bố chủ quyền phi pháp. Trung Quốc đã đạt được một số mục tiêu. Từ chỗ không có gì ở Biển Đông, Trung Quốc đã có toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa, một phần Quần đảo Trường Sa. Với việc củng cố mở rộng các đảo tôn tạo thành các căn cứ quân sự, Bắc Kinh sẽ không từ bỏ chiến lược pháo hạm. Họ sẽ chia rẽ đến cùng mục tiêu chung của các nước ASEAN nếu đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc. Không có Biển Đông, không thâu tóm được các nước Đông Nam Á, Trung Quốc rất khó khăn để có thể phát triển sức mạnh hải quân, khó có thể trở thành cường quốc biển, và do vậy họ không thể đẩy Mỹ ra khỏi Tây Thái Bình Dương, không khống chế được một trong tuyến đường vận chuyển huyết mạch của thế giới và của chính họ.
Những động thái đáng chú ý của Mỹ.
Cho đến nay Mỹ không có ý định từ bỏ vai trò lãnh đạo thế giới của mình và cũng không chấp nhận đề nghị của Tập Cận Bình xây dựng mối quan hệ nước lớn kiểu mới Mỹ-Trung. Có nghĩa là Wasinhton không chấp nhận cùng chiếu với Bắc Kinh. Chính quyền Obama đã phản ứng trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao, phản ứng Bắc Kinh trong quan hệ song phương, ở các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế, ở nhóm G 7, G 20 về vấn đề Biển Đông; yêu cầu Bắc Kinh phải chấp hành Phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực Quốc tế và quyền tự do hàng hải ở Biển Đông… Có nghĩa là Mỹ không cho phép Trung Quốc đặt ra luật chơi, mà phải tuân theo luật quốc tế hiện hành.
Đối phó với sự thay đổi về chiến lược quân sự mới, với tình trạng vừa ổn định vừa bất ổn định do Bắc Kinh gây ra, đặc biệt là đối với Chiến lược chống tiếp cận A2/AD, giới quân sự Mỹ đã xây dựng Chiến lược Tác chiến trên Không trên Biển (Air Sea Battle Operational Concept- ASB). Chiến lược Tác chiến Không-Biển có mục tiêu: “phá hủy, tiêu diệt và đánh bại mọi lực lượng quân sự thù địch của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường, thống trị bầu trời và mặt biển, phong tỏa lục địa của đối phương; phong tỏa toàn bộ khu vực Tây Thái Bình Dương”.
Nội dung chủ yếu của Chiến lược Tác chiến Không-Biển là sử dụng tất cả sức mạnh các lực lượng hải quân bao gồm tất cả các cụm tàu sân bay, chiến hạm tác chiến, tàu ngầm, không quân hải quân, lực lượng không quân và các lực lượng khác bao gồm bộ binh, lực lượng đặc nhiệm, lực lượng các nước đồng minh, tác chiến điện tử… với mục đích tấn công, tiêu diệt, bao vây và phong tỏa đất liền trên một không gian chiến trường rộng lớn, nhằm bóp nghẹt và phá hủy, tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa sức mạnh quân sự, vũ khí trang bị chiến tranh của đối phương trên toàn bộ chiều sâu chiến trường trong cuộc chiến tranh phi tiếp xúc.
Về kinh tế, Mỹ đã theo đuổi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương sau 5 năm đàm phán, một hiệp định thương mại tự do kiểu mới, không có sự tham gia của Trung Quốc. Hiệp định bao gồm 12 nước trong lòng chảo Thái Bình Dương. Theo đề nghị của Tổng thống Obama các nước sẽ tiếp tục hoàn thiện và ký kết tại Hoa Kỳ vào năm 2016. Có thể nói đây là cái cốt vật chất của chiến lược xoay trục về châu Á của chính quyền Mỹ nhằm đối trọng với chính sách thương mại của Trung Quốc.
Trên lĩnh vực chính trị, Chính quyền Obama đã tập hợp lực lượng xung quanh khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Và Mỹ đã gặt hái được nhiều thành công. Kể từ sau Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã củng cố liên minh Mỹ-Hàn, Mỹ-Nhật, Mỹ-Australia và Mỹ-Philippines chặt chẽ hơn bao giờ hết. Quan hệ Mỹ-ASEAN bước đầu định hình khuôn khổ chiến lược kinh tế, chính trị, an ninh tốt đẹp trong tương lai sau Hội nghị Sunderland giữa Mỹ với mười nước. Mỹ cũng xây dựng được quan hệ tốt đẹp hơn bao giờ hết với Ấn Độ, quốc gia có tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, đặc biệt là quan hệ quốc phòng như chia sẻ, sử dụng các căn cứ quân sự hậu cần chung giữa hai nước.
Ngoài ra, trong Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á hay còn gọi là Hội nghị Shangri-la 15 ngày 14/6/ 2016 tại Singapore, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ kêu gọi xây dựng một mạng lưới an ninh tập thể mới (collective security network), dựa trên những nguyên tắc và chuẩn mực chung. Đây là một xu thế mới mà bản chất là an ninh tập thể do Mỹ lãnh đạo nhằm đối phó với Trung Quốc. Chắc chắn điều này đã, đang và sẽ được nhiều quốc gia ủng hộ. Có nhiều dấu hiệu cho thấy một cục diện mới ở châu Á-Thái Bình Dương đang định hình. Mỹ làm được điều này là nhờ vào tham vọng bành trướng và biểu hiện sức mạnh cơ bắp của Trung Quốc, khiến nhiều nước ngả về phía Mỹ để cân bằng trước một Trung Quốc đang biến mình trở thành một Thiên triều như hàng ngàn năm lịch sử phong kiến trước đây.
Tựu chung lại, chính quyền hai nước Mỹ-Trung vẫn đang thực hiện những bước đi nằm trong tính toán chiến lược của họ. Hai năm, năm 2015-2016, cả hai nước đã đẩy xung đột lên đến cao độ. Trước mắt, trận tuyến ưu tiên hàng đầu của Trung Quốc là Hoa Đông và Biển Đông (theo người viết Biển Đông là mặt trận chính). Trung Quốc đã huy động sức mạnh tổng hợp quốc gia, đặc biệt là sức mạnh quân sự cho hướng đông và đông nam. Mỹ cũng bước vào giai đoan hoàn thành việc cơ cấu lại lực lượng quân sự, chuyển 60 sức mạnh quân sự sang châu Á-Thái Bình Dương, tập hợp và củng lực lượng đồng minh cùng với các đối tác nhằm đối phó với Trung Quốc. Về mặt quân sự có thể nói Thái Bình Dương nói chung và Biển Đông nói riêng đang diễn ra một cuộc so găng quân sự lớn nhất trong lịch sử nhân loại. Cả hai phía đều thúc đẩy xung đột, hay nói đúng hơn là tiến hành leo thang một cách có chủ ý. Chưa đến mức chiến tranh nhưng có thể nói là hoàn toàn không bình thường. Tình trạng này sẽ kéo dài trong bao nhiêu lâu còn tùy thuộc vào việc quản lý leo thang xung đột của cả hai bên. Nhưng chắc chắn cả hai bên đều không từ bỏ mục tiêu của mình.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.