Nhớ về A Bia

Leave a Comment

 Nhớ về A Bia

Kỷ niệm ngày 30/4, ban liên lạc cựu chiến binh Trung đoàn 3 Sư đoàn 324 Hà nội phối hợp với ban liên lạc trung đoàn 3 Quảng Ninh, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thái Nguyên tổ chức chuyến đi hai ngày thăm nhà tưởng niệm Bác Hồ, lán Nà Nưa, mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, bảo tàng và một số di tích lịch sử tại ATK Thái Nguyên; Cũng nhân dịp này anh em trong ban liên lạc một số tỉnh phía bắc đến thăm một số đồng đội ở Thái Nguyên đang đau ốm, gặp gỡ giao lưu văn nghệ, đốt lửa trại với nhân dân địa phương để nhớ về một thời…
Chuyến đi này chúng tôi gặp lại một số anh đã gia nhập trung đoàn từ những ngày đầu đánh Mỹ, lớp các anh tham gia nhập ngũ năm 1967, năm 1968. Nay phần lớn các anh đã trên dưới 75. Trong số đó có anh Đào Quang Đới, người cho đến thời gian gần đây anh em đồng đội vẫn đề nghị nhà nước phong tặng danh hiệu anh hùng.
Thực ra, trước chuyến đi này tôi đã gặp anh Đới mấy lần tại Hội thảo 50 năm chiến thắng A Bia và Kỷ niệm 50 năm chiến thắng A Bia tại Huyện A Lưới, Thừa Thiên. Tuy nhiên tôi chưa có dịp nào trò chuyện với anh. Chuyến đi này tôi quyết không bỏ lỡ, đeo bám theo anh hai ngày. Vì tôi ở Tiểu đoàn 8 nên ít có dịp gặp gỡ cán bộ chiến sỹ Tiểu đoàn 7. Anh Đới là chiến sỹ duy nhất mà tôi được biết, người có thể giải đáp cho tôi về trận vận động tấn công của Đại đội 2, Tiểu đoàn 7 trong trận đánh chiếm điểm cao 916 ngày 17/5, trận đánh mà tôi vẫn còn mù mờ trong khi dịch cuốn Đồi Thịt Băm.
Vào lúc xe dừng nghỉ giải lao trên đường đi Thái Nguyên, tôi kéo anh Đới ra một quán nước, vừa đi vừa hỏi: “Em đã nghe và đọc bài tham luận của anh ở hội thảo 50 năm tại A Lưới, đã nghe anh kể về những trận đánh ở A Bia trong buổi giao lưu tại lễ kỷ niệm 50 chiến thắng A Bia-935, Cốc Bai tại Hà Nội. Nhưng vẫn còn nhiều điều muốn hỏi anh. Anh có còn nhớ trận đánh trên điểm cao 916 không”. Anh cười trả lời: “Cho đến nay anh vẫn không thể quên những ngày ác liệt đó, không chỉ vì những kỷ niệm mất mát đau thương về đồng đội mà còn vì anh là một trong những người viết Lich sử của sư đoàn mình…”
- Anh còn nhớ sau bốn ngày liên tục đánh phá, tấn công lên Động A Bia, anh Đới chậm rãi kể, quân Mỹ đều bị chặn đứng. Bắt đầu từ ngày 15 tháng Năm, chúng thay đổi chiến thuật, sử dụng không quân ném bom phá, bom napan và huy động bốn trận địa pháo bắn phá ác liệt suốt ngày đêm vào các trận địa chốt của Tiểu đoàn 8; đưa lực lượng cấp đại đội đánh vào các điểm cao 916 và 900, nhằm bao vây cô lập các trận địa chốt của Tiểu đoàn 8, sau đó mới dùng lực lượng lớn tấn công, đánh chiếm toàn bộ A Bia…
Những điều anh kể tôi biết rõ qua cuốn Lịch sử sư đoàn và cuốn Đồi Thịt Băm vì tôi đã đối chiếu từng ngày khi viết bài tham luận. Theo tác giả cuốn Đồi Thịt băm, buổi sáng ngày 15/5 hai đại đội Alpha và Bravo thuộc Tiểu đoàn 3/187 tiếp tục tổ chức tấn công lên đồi A Bia sau bốn ngày tấn công thất bại. Sau một giờ ném bom và phi pháo, hai đại đội Mỹ theo hai hướng tấn công lên trận địa chốt của Tiểu đoàn 8. Chúng rất thận trọng nhưng đi vào bãi mìn dự kiến của chiến sỹ đại đội 5, 6, 7 nên thương vong rất nhiều.
Quân địch ở cả hai hướng tấn công buộc phải lui xuống. Trung tá Honeycutt chỉ huy tiểu đoàn lại gọi máy bay, pháo các loại bắn dồn dập vào hầm chốt của ta hàng giờ rồi tiếp tục cho quân rũi lên. Chúng chiếm được dẫy hầm thứ nhất nhưng không thể tiến lên tiếp vì lựu đạn của ta từ tuyến chốt sau lăn xuống đồi dốc khiến nhiều lính Mỹ thương vong. Chúng lại tiếp tục gọi máy bay ném bom, gọi trực thăng vũ trang, trang bị loại loại súng minigun, loại súng máy một phút bắn 5000 viên đạn xuống các căn hầm chốt của ta và tiếp tục thúc quân theo hàng dọc trườn lên. Chờ chúng đến thật gần, các chiến sỹ đồng loạt nổ AK, B40 đánh bật kẻ địch xuống.
Honeycutt vẫn tiếp tục gọi trực thăng vũ trang phóng tên lửa và vãi đạn xuống những căn hầm chốt. Hai bên giáp chiến gần đến nỗi lính Mỹ cũng trúng bom đạn của chính chúng ném xuống. Mặc dầu vậy tên chỉ huy Tiểu đoàn dù vẫn kiên quyết ép hai đại đội tiếp tục áp sát. Tới được căn hầm đầu tuyến thứ hai, lính Mỹ phải đương đầu với một cơn bão đạn và lựu đạn. Hai đại đội Mỹ ở hai hướng tuyệt vọng. Tên chỉ huy tiểu đoàn cay đắng phải ra lệnh rút xuống chân núi trong một cơn mưa lớn.
Ở hướng bên, vào trưa ngày 15/5, trực thăng Mỹ đổ Đại đội Bravo thuộc Tiểu đoàn1/506 xuống điểm cao 916, đồng thời Lữ dù 3 tung tiếp một số đại đội vào hướng điểm cao 900, phối hợp hơn hai tiểu đoàn đánh lấn dần sang A Bia. Chúng hy vọng cùng với Tiểu đoàn 2/501 tổ chức phản kích đứt điểm mục tiêu.
Hai bên giành giật nhau từng căn hầm suốt hai ngày đêm. Quân Mỹ ba lần thay quân. Lực lượng ta cũng thương vong, quân số vơi dần, hầm hào sụt lở, không kịp củng cố. Các chốt của Tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng chốt Đại đội 8. Có hầm chốt chỉ còn một chiến sỹ, đồng chí Nguyễn Văn Hiệu vừa bắn AK, vừa bắn bắn B40, vừa bắn trung liên, vừa ném lựu đạn để ngăn chặn quân Mỹ.
Ngày hôm 16, thực tế tiểu đoàn 8 đã bị cắt rời khỏi đội hình trung đoàn 3. Ban chỉ huy tiểu đoàn 8 hội ý quyết định bố trí lại lực lượng và tung lực lượng dự bị vào trận. Đồng thời tiểu đoàn điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình ngày một khó khăn. Tử sỹ và thương binh không chuyển ra được. Đạn thiếu, lực lượng cơ động, dự bị không còn. Tiểu đoàn có khả năng chỉ giữ được đến sáng 17 tháng 5”.
Trong tình thế đó, Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan trực tiếp ra lệnh cho Tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ vững A Bia, thu hút đối phương vào sâu, tạo điều kiện cho hai tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa lực lật cánh sang phía nam A Bia; vận động tấn công vào sườn quân Mỹ. Và nhiệm vụ trước mắt là phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để lập lại thế liên hoàn toàn trung đoàn.
Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 7 Tăng Văn Miêu nhận mệnh lệnh của Trung đoàn 3 đánh chiếm một số vị trí ở phía đông, riêng Đai đội 2 tổ chức vận động tấn công đánh chiếm điểm cao 916. Thời gian đó chính là khoảng trống trong cuốn sách Đồi Thịt Băm của tác giả Zaffiri. Tôi muốn anh Đới kể chi tiết hơn về trận đánh này để có thêm tư liệu.
Lên xe anh Đới tiếp tục kể về trận đánh. Tôi chỉ thuật lại những nét chính, bỏ qua nhiều chi tiết như phương án tác chiến của các đại đội; các cuộc họp xác định tư tưởng, củng cố quyết tâm của đại đội và các trung đội. Các cách thức ém quân và vận động…
Vào khoảng 5h30 ngày 16/5/1969, Trung đội 2 thuộc Đại đội 2 xuất phát trước. Để tạo điều kiện cho Trung đội 2 và các trung đội tiền nhập cao điểm 916, pháo cối của tiểu đoàn 7 bắn phá nhiều đợt vào điểm cao. Tổ ba người do anh Đới phụ trách và là mũi nhọn được giao nhiệm vụ dẫn đầu. Anh thận trọng cắt rừng (A Bia đại thể là một cánh rừng rậm ba tầng, xen kẽ những trảng cỏ voi cao ngập đầu người), leo dốc dựng đứng, mở đường lên cao điểm để nắm tình hình. Khoảng hơn một giờ sau, áp tai sát đất anh nghe thấy những tiếng động mơ hồ phía trước. Cẩn thận trườn lên một quãng tới một cây gỗ đổ chắn ngang trước mặt, anh nghe tiếng những giọng nói xì xồ. Nhô người lên trong tán lá rừng, anh phát hiện một toán lính Mỹ ngồi ôm súng AR15. Anh quay lại ra hiệu cho hai đồng đội Trang và Thạch nằm xuống. Ba người cùng lui dần xuống báo cáo trung đội.
Trung đội trưởng quyết định chia làm hai mũi tấn công. Khi áp sát vị trí quân địch, cả hai hướng đồng loạt ném lựu đạn và nổ súng. Khoảng ít phút sau, các chiến sỹ dựa vào thân cây rừng tiến dần lên. Lính Mỹ lùi xuống công sự, hố cá nhân cố thủ chống trả quyết liệt. Anh Phòng bị trúng đạn ở lưng, bò tới chỗ anh Đới. Không có thời gian để băng bó cả hai anh tựa vào gốc cây bắn điểm xạ từng loạt. Kẻ địch xả súng bắn như vãi đạn. Có vẻ như chúng không nắm chắc mục tiêu, hoảng loạn bắn bừa bãi về phía có tiếng súng. Khoảng 20 phút sau máy bay trực thăng vũ trang bay đến hỗ trợ. Chúng xà thấp xuống ngọn cây thả lựu đạn và bắn súng máy. Một số chiến sỹ trúng mảnh đạn.
Biết không thể dứt điểm, trung đội quyết định rút lui về địa điểm theo kế hoạch. Về đến vị trí ai nấy đều ướt sũng mồ hôi, mặt mày xây xước trong khi tiếng súng nổ vẫn chát chúa phía trước. Kiểm điểm quân số thấy thiếu Tiểu đội trưởng Nguyễn Văn Tiến. Trung đội trưởng yêu cầu anh Đới vượt dốc trở lại tìm.
Trên trời ba chiếc máy bay trực thăng vũ trang vẫn quẩn đảo tìm kiếm lực lượng ta. Khoảng 15 phút sau anh Đới gặp anh Tiến đang ẩn sau một thân cây bắn điểm xạ vào chiếc máy bay trực thăng bay theo tăm tia trên đầu. Thì ra anh Tiến cố tình lùi lại sau để yểm trợ cho anh em rút về trước, đề phòng lính Mỹ bám theo. Thêm vào đó bị máy bay lùng sục, anh Tiến vừa phải bắn trả vừa tìm cách lẩn tránh nên về chậm.
Khoảng 16h cùng ngày, qua đài vô tuyến, đài quân sát sở chỉ huy điện cho biết Trung đội 2 đánh rất tốt. Tiêu diệt 10 lính Mỹ, bắn rơi một máy bay trực thăng. Đêm hôm đó trời mưa phùn. Cả trung đội chia nhau từng nắm cơm vắt mang đi từ sáng. Anh Tiến và anh Đới dựa vào thân cây dưới tán cây rừng ngủ chờ sáng.
Trời đã rất khuya, cũng như mọi người trong trung đội, cả hai người đều trằn trọc không sao ngủ được. Đó là đêm đầu tiên hai người tâm sự chuyện quê hương, gia đình, nhà cửa. Những giọt mưa thấm lạnh tí tách nhỏ xuống… Vừa giục anh Đới ngủ, chợt anh Tiến lên tiếng: “Đới có người yêu chưa”. Khi nghe anh Đới trả lời “Chưa”, anh Tiến tiếp tục: “Theo kinh nghiệm của anh, trận đánh ngày mai gay go đấy. Cách đây mấy ngày, hai trung đội thuộc đại đội mình đã tập kích đánh vào cao điểm này bằng cối, B40 diệt mấy chục tên rồi rút. 3 chiến sỹ hy sinh. Lần này thì khác, ta phải đánh và giữ. Nếu anh có hy sinh em cố gắng báo tin cho gia đình anh. Đới hy sinh anh sẽ báo cho gia đình Đới. Anh em mình giao hẹn với nhau như thế nhé. Còn một việc này nữa, ba lô anh để ở hậu cứ. Trong ba lô có cuốn “Bất khuất”, kẹp bên trong là bức thư anh gửi cho người yêu. Hiện cô ấy đang học năm thứ nhất Đại học Kinh tài”.
Anh Tiến trao đổi với anh Đới về nội dung bức thư. Có thể nói đó là một bức thư từ biệt, căn dặn, chúc phúc người yêu trong tương lai. Anh Tiến mở ví, lấy ra tấm ảnh, chiếc khăn tay thêu đôi chim bồ câu. Hai người khum tay che, bật đèn pin ngắm nhìn, nâng niu từng kỷ vật…
5h00 sáng ngày 17/5 anh Đới được giao nhiệm vụ quay lại sông Đáp Lìn đón Trung đội 1 và Trung đội 3. Đại đội 2 chia làm hai mũi tấn công, bí mật vận động lên dốc, tới điểm cao 916, một vị trí quen thuộc, khá bằng phẳng. Đúng vào lúc trực thăng Mỹ thả đồ ăn sáng, sau quả đạn B40 bắn vào chiếc máy bay phát tín hiệu, cả hai mũi đồng loạt xả đạn. Những phút đầu quân Mỹ bất ngờ, rối loạn. Dần dần chúng củng cố, chống trả quyết liệt. Đặc biệt khẩu đại liên trên điểm cao bắn càn lướt hướng Trung đội 2.
Địa hình trên điểm cao trống trải. Nhiều chiến sỹ phải nắm dán xuống đất tránh hỏa lực. Anh Đới trườn tới chỗ chiến sỹ Thái cầm B40 trao đổi nhanh: “mình bắn điểm xạ thu hút mục tiêu, cậu trườn sang phải bắn vào hỏa điểm”. Một lát sau một quầng lửa bao trùm kèm theo tiếng nổ dữ dội. Khẩu đại liên tắt ngấm. Cả trung đội vừa bắn vừa xung phong, áp sát đội hình địch đánh giáp lá cà.
Trong tình thế thuận lợi, Trung đội 3 dự bị cũng thừa cơ ào lên tấn công trực diện. Cả ba hướng dũng mãnh tấn công truy kích . Quân Mỹ lui dần xuống chân điểm cao, sa vào trận địa chốt của Đại đội 5 Tiểu đoàn 8. Gần như đại đội Mỹ bị tiêu diệt gọn.
Ở điểm cao 900 và một số vị trí khác, trận vận động tấn công của Tiểu đoàn 7 kéo dài cho đến tận quá nửa đêm. Sáng sớm 18/8, cánh quân của Tiểu đoàn 7 do Tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu băng qua đèo Yên ngựa hợp quân với Tiểu đoàn 8 chốt. Họ ôm lấy nhau sau mấy ngày bị cô lập. Nước mắt mọi người ứ ra trên những khuôn mặt bê bết đất và máu. Chính trị viên Đại đội 7 Phan Đân (sau này là Chính ủy Sư đoàn 324) rơm rớm nước mắt “Cảm ơn đồng đội, cảm ơn Tiểu đoàn 7. Tất cả chúng tôi đều nghĩ mình sẽ hy sinh”.
Trận đánh ở cao điểm 916 có thể nói là một trận thắng lớn, có nhiều ý nghĩa. Đại đội 2 tiêu diệt gần một đại đội lính dù Mỹ, thu 30 khẩu AR16, 4 khẩu M79, bắn rơi một máy bay. Anh Đới được tặng danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ”, Huân chương chiến công hạng Ba, được kết nạp Đảng ngay sau trận đánh.
Chiến thắng nào cũng có cái giá của nó. Đại đội 2 mất 7 đồng chí, 10 đồng chí bị thương. Anh Đới buồn rầu nói với tôi: “không ngờ cái linh cảm của anh Tiến lại trở thành sự thật. Anh trúng đạn hy sinh trước thời điểm ta làm chủ trận địa ít phút.. Anh Đới thay mặt cho tiểu đội nhận danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ và Huân chương Chiến công hạng Nhất cho Anh Tiến.
Đó là lần đầu tiên trong đời anh Đới được Thủ trưởng Ma Vĩnh Lan thay mặt trung đoàn trao giấy chứng nhận và gắn huân chương lên ngực áo và được trao giữ kỷ vật cho người đã mất trong lễ mừng công. “Vậy mà đã 52 năm rồi!” hai hàng nước mắt anh Đới chảy xuống khuôn mặt khắc khổ, chằng chịt bao nếp nhăn. “Thủ trưởng Ma Vĩnh Lan cũng ra đi bao năm nay rồi! Cả trung đội đến nay chỉ còn lại vài người” Tôi ôm lấy anh Đới: “Chiến tranh mà! Sư đoàn mình mất 13 ngàn đông đội”…
Tôi xoay sang chuyện khác để xua đi những kỷ niệm nặng nề đeo bám anh hơn năm mươi năm nay: “Anh thấy Thủ trưởng Ma Vĩnh Lan là người như thế nào”. Khuôn mặt anh rạng ngời, giọng nói trở nên sôi nổi, hưng phấn:
- Anh Lan là thần tượng của lớp lính bọn anh, là tấm gương cho bọn anh noi theo. Không chỉ anh mà anh Hồ Hữu Lạn (nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 3 những năm 1970), anh Lê Huy Mai (nguyên Trưởng ban Trinh sát-Đặc công Sư 324) và nhiều cán bộ thời đó đều thừa nhận Thủ trưởng Lan là cán bộ có bản lĩnh, xông xáo, mưu lược, gần gũi anh em, thương lính. Trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn nguy hiểm anh vẫn tỏ ra bình tĩnh. Anh còn nhớ khi gặp những tình huống gay go, căng thẳng, thủ trưởng thường nhíu lông mày tìm cách tháo gỡ. Thủ trưởng luôn biết phát huy ting thần dân chủ bàn bạc xử lý vấn đề. Chưa bao giờ tôi thấy thủ trưởng nóng nảy...
Về Thủ trưởng Ma Vĩnh Lan thì cán bộ chiến sỹ Trung đoàn 3, cuối những năm 60, đầu những năm 70 ai nấy đều biết. Ngay cả kẻ đich cũng biết rất rõ con người này. Chúng đã bao lần treo giải đầu thủ trưởng, gọi thủ trưởng trên loa máy bay chiêu hồi là “con hổ xám hung dữ”, “tên cáo già”...
Thủ trưởng Ma Vĩnh Lan trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, từ một người lính, từ cán bộ tiểu đội đến cán bộ tiểu đoàn. Vào đầu tháng 6/ 1966, khi ta mở Mặt trận B5, Mặt trận Đường 9-Bắc Quảng trị nhằm thu hút quân Mỹ ra phía bắc tiêu hao tiêu diệt để hỗ trợ cho các chiến trường phía trong, Thủ trưởng Lan đã có mặt và là Trung đoàn trưởng. Ngay từ ngày ấy tên tuổi của thủ trưởng đã gắn liền với những trận như Đầu Mầu, Cù Đinh, Ba De, Tam Tanh, A Dơi... Ngay từ những ngày ấy thủ trưởng đã thực hiện xuất sắc chiến thuật chốt “Kiềng ba chân” nhằm tránh thương vong do bom, phi pháo của Thủy quân lục chiến Mỹ. Thủ trưởng Lan đã đến từng đại đội, trung đội chỉ đạo cách đào hầm chốt, bố trí “kiềng chốt”. Khi lính Thủy quân lục chiến Mỹ đánh vào một chốt, các chốt khác bất thần áp đảo, xuất kích đánh xen kẽ đội hình khiến chúng gặp rất nhiều khó khăn. Thủ trưởng cũng yêu cầu hạn chế chốt trên đỉnh đồi/núi; bố trí chốt ở sườn đồi/núi tránh cửa hầm chốt hướng về phía địch, vừa bí mật khó bị lộ, vừa tránh được M79 rót trúng. Thủ trưởng luôn căn dặn cán bộ chiến sỹ lợi dụng địa hình, bí mật dấu quân, ém quân, bất ngờ vận động tấn công kết hợp chốt giữ; phải dũng cảm bám thắt lưng địch mà đánh, tránh phân tuyến hạn chế hỏa lực pháo, giảm thương vong. Phương châm chốt của thủ trưởng luôn nhất quán là ít người. Hầm hào, công sự phải kiên cố. Nhưng không được ỉ lại chốt. Luôn vận động bám sát, tập kích, xuất kích, đánh địch cả ngày lẫn đêm...
Riêng tôi còn phát hiện thêm những chi tiết mà nhiều cán bộ chiến sỹ chưa biết đến trong trận A Bia. Nguyên do là mấy lần vào A Lưới chuẩn bị cho hội thảo, mỗi lần về A Lưới chúng tôi ở đó một vài ngày. Có dịp theo đài truyền hình VTV8 ở Huế đến phỏng vấn Anh hùng Hồ Vai, Kan Lịch, Hồ Đơm, anh Thông…
Anh Thông là bộ đội địa phương, người ở khu vực A Bia. Anh được huyện đội biệt phái giúp Thủ trưởng Lan và đoàn cán bộ Trung đoàn 3 đi thực địa khu vực A Bia từ đầu tháng 3 (trước trận đánh hơn hai tháng). Anh Thông cho tôi biết, có chuyến đi thực địa kéo dài liền mấy ngày đêm. Có thể nói ròng rã hàng tháng thủ trưởng và đoàn cán bộ nghiên cứu thực địa, nắm chắc khu vực A Bia như trong lòng bàn tay (một lần nói chuyện với Tướng Tăng Văn Miêu ở Hải phòng, thủ trưởng Miêu cũng xác nhận: “Anh ấy chỉ đạo các tiểu đoàn, đại đội thậm chí không cần dùng đến bản đồ. Người ta có cảm giác anh ấy thông thuộc tất cả các vị trí trên đồi A Bia”).
Trước và trong trận đánh A Bia, Thủ trưởng Lan yêu cầu đặc biệt phải trú trọng tới hệ thống hầm chốt, giao thông hào và công sự. Hệ thống hầm chốt liên hoàn theo chiều sâu, được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ, hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Thủ trưởng Lan nói “ Nếu không có nó thì chết hết vì bom đạn. Có dũng cảm hy sinh thì cũng bằng thừa”.
Sau khi thăm một địa điểm ở Thái Nguyên, đến gần 12 giờ các đoàn chúng tôi mới ăn cơm trưa. Trong bữa ăn, chúng tôi và anh anh Đới vẫn chỉ xoay quanh những chuyện về A Bia. Tôi muốn nói chuyện với anh về K7, về trận đánh trên điểm cao 550 trong Chiến dịch Đường 9- Nam Lào với tư cách anh là tiểu đội trưởng, những trận đánh ở sông Bồ năm 72-73 với tư cách anh là cán bộ trung đội, những trận đánh ở Đắc Pét, Thường Đức năm 1974, đặc biệt là trận ở chốt thép trên điểm cao 1062 với tư cách anh là cán bộ đại đội… Nhưng không còn thời gian. Cơm trưa xong anh Đào Quang Đới, anh Huỳnh Công, anh Vũ Thành, những chiến sỹ A Bia năm xưa phải chia tay anh em về Hà Nội để ngày hôm sau dự Lễ kỷ niệm 55 năm Quân Khu Trị Thiên. Tôi cố kéo anh Đới ở lại với đoàn. Anh lắc đầu: “Không thể Huệ à, hẹn em khi khác, ngày mai anh phải gặp lại đồng đội”.
Dưới đây là bản đồ của Mỹ và hình ảnh lính Mỹ trong trận A Bia:
Bạn, Phạm Lý, ThuHa Nguyen và 55 người khác
58 bình luận
5 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

58 bình luận

Phù hợp nhất


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.