A Bia theo quan điểm của người Mỹ là một trận đánh mang tầm chiến lược

Leave a Comment

 A Bia, theo quan điểm của người Mỹ là một trận đánh mang tầm chiến lược, một trận đánh đã làm thay đổi phương thức tác chiến của Mỹ trên chiến trường miền Nam

Vào những ngày này cách đây 52 năm, trận chiến trên đồi A Bia, A Lưới, Thừa Thiên vẫn đang diễn ra rất quyết liệt. Tôi xin lược trích một số bài viết của tôi in trong Kỷ yếu Hội thảo về chiến thắng A Bia nhân kỷ niệm 50 Chiến thắng A Bia tại huyện A Lưới để bạn đọc và đồng đội tham khảo.
... Với người Mỹ, trong lịch sử chiến tranh Việt Nam có 5 trận đánh kinh điển, 5 trận đối đầu ác liệt nhất đi vào sử sách, sách giáo khoa quân sự, những trận đánh quyết định trong cuộc chiến tranh Việt Nam (Jimlott. Vietnam the Decisive Battles- Mac Milan. New York). Đó là trận chiến Ia Drăng, trận Đắc Tô, Trận Khe Sanh, trận A Bia và trận đánh trên điểm cao 935 hay còn gọi là Ripcord. Trên dưới 50 năm đã trôi qua, chúng ta có đủ thời gian để khẳng định lại tầm quan trọng của các trận đánh trên trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Trong 5 trân đánh kể trên, trận đánh trên đồi A Bia là một trận đánh có ý nghĩa vượt xa tầm của một trận chiến bình thường.
Tôi đã sưu tầm được bốn cuốn sách của bốn tác giả Mỹ khác nhau viết về trận đánh trên đồi A Bia mà người Mỹ gọi là “Đồi Thịt băm” (Humburger Hill) để tặng Sư đoàn 324 và tặng Trung đoàn 3 Sư 324 cùng với quân và dân huyện A Lưới đã làm nên hai chiến thắng lừng lẫy vào trung tuần tháng năm 1969 và nửa đầu năm 1971. Trong số các tác giả tác phẩm, đáng chú ý nhất là tác giả cuốn Đồi Thịt băm. Tên tác giả là Samuel Zafiri. Ông nguyên là lính bộ binh thuộc Sư đoàn Bộ binh số 1, sư đoàn nổi tiếng với tên gọi Anh cả Đỏ (The famed Big Red) trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Hiện ông sống ở Bloomington bang Illinois.
Zaffiri là người am hiểu tình hình thực tế chiến trường, làm việc rất nghiêm túc với nhiều sỹ quan, binh sỹ tham gia trực tiếp Chiến dịch Tuyết rơi trên đỉnh Apatche, một chiến dịch đánh lên Đồi A Bia thuộc huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên. Chuẩn bị viết cuốn Đồi Thịt băm, Zafiri đã tiếp cận với một kho dữ liệu về các cuộc chiến đấu ở Mặt trận Trị Thiên trong Thư viện của Học viện Lịch sử Chiến tranh Quân đội Hoa kì cùng với hàng trăm cuốn sách, báo cáo viết về chiến tranh Việt Nam của các tướng tá Mỹ. Vì vậy, khi viết cuốn sách này, ông đã đi sâu mô tả một cách sinh động, xác thực cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt trên Đồi A Bia giữa Lữ đoàn Dù 3 khét tiếng thuộc Sư đoàn Dù số 101 thiện chiến của Mỹ với Trung đoàn 3 anh hùng thuộc Sư đoàn 324 anh hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Qua nghiên cứu một số tài liệu Lịch sử quân đội, Lịch sử Sư đoàn 324 và các cuốn hồi ký của các tướng tá, cá nhân tôi thấy phía Việt Nam không đánh giá cao giá trị trận chiến trên Đồi A Bia như phía Mỹ, cả ở mục tiêu cũng như ý nghĩa của trận đánh. Trận A Bia không được xếp vào trận đánh lớn có ý nghĩa cấp chiến dịch. Thậm chí trong bộ Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ cũng chỉ dành vẻn vẹn vài trang viết về trận A Bia. Lần lại 50 năm về trước, mặc dầu xác định quyết tâm và tầm quan trọng của trận đánh nhưng Quân khu Trị Thiên và Sư đoàn 324 cũng chỉ huy động lực lượng đánh A Bia ở mức trung đoàn.
Trung đoàn 3 Sư 324 vào trận A Bia với phương án vận động tấn công kết hợp chốt, tạo dựng cụm chốt liên hoàn, thu hút quân Mỹ vào sâu để tạo điều kiện cho các đại đội, tiểu đoàn cơ động tấn công, tập kích vào quân Mỹ đóng dã ngoại và quân ứng cứu. Mục đích của Sư đoàn 324 chỉ dừng lại ở mức tiêu diệt nhiều sinh lực Mỹ, ngụy để hỗ trợ cho cơ sở cách mạng ở vùng đồng bằng, củng cố lòng tin đối với chủ lực ta đang đánh địch ở vùng rừng núi… Tổng kết chiến thắng A Bia Quân khu Trị Thiên cũng chỉ đánh giá trận đánh đạt hiệu suất cao, tiêu diệt được nhiều sinh lực địch, mở đầu cho giai đoạn khôi phục lại thế trận xuống đồng bằng. Trung đoàn 3 chỉ được tặng một Huân chương Chiến công, Tiểu đoàn 7 (tiểu đoàn vận động tấn công), Tiểu đoàn 8 (tiểu đoàn chốt) được tặng một Huân chương Chiến công. Vẻn vẹn chỉ có ba huân chương tất cả…
Theo quan điểm của người Mỹ, trận A Bia là “một trận chiến đấu ác liệt nhất, khủng khiết nhất, kinh hoàng nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh Việt Nam”, một cuộc chiến đã gây chia rẽ sâu sắc giới Chính quyền Mỹ, làm rung chuyển hệ thống truyền thông và người dân Mỹ, làm giấy lên sự phản kháng dữ dội tại Thượng viện Mỹ về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trận chiến A Bia đã chạm đến ngưỡng cuối cùng về sức chịu đựng của người dân Mỹ. Làn sóng biểu tình dâng cao chưa từng có. Thất bại trận đánh trên đồi A Bia được ví có ảnh hưởng như cuộc Tổng Tấn công Tết Mậu thân năm 1968 đối với nước Mỹ.
Rõ ràng phía quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam cùng với các nhà nghiên cứu lịch sử ở hai phía có cái nhìn rất khác nhau về trận đánh này. Để phần nào lý giải sự khác nhau đó chúng ta hãy đi theo cái điểm nhìn của đối phương.
Bối cảnh dẫn đến trận chiến trên Động A Bia
Các tác giả viết về trận A Bia đều đề cập đến toàn bộ bối cảnh, các kế hoạch tác chiến, những trận đánh và những chiến dịch lớn bắt đẩu từ những năm 1960 đến đầu năm những 1970 tại Thung lũng A Sầu. Mục tiêu của tất cả các kế hoạch, những trận đánh, những chiến dịch của Mỹ, ngụy ở A Lưới là kiểm soát được Thung lũng A Sầu, một thung lũng thuộc địa bàn rừng núi có ý nghĩa chiến lược với cả hai phía. Chân dung lực lượng Thủy quân lục chiến, Sư đoàn kỵ binh bay, Sư đoàn Dù lần lượt xuất hiện trên chiến trường Trị Thiên, đặc biệt là ở thung lũng A Sầu, A Lưới với kế hoạch giải cứu quân ngụy ở ba căn cứ tại Tà Bạt, A Sầu và một làng ở A Lưới cùng với nhiều chiến dịch đánh vào A Sầu, A Lưới với mục tiêu tìm diệt lực lượng quân giải phóng, phá hủy toàn bộ hệ thống kho tàng hậu cần, cắt đứt con đường chiến lược vận chuyển vào sâu phía nam.
Cuộc chiến giữa quân Mỹ và lực lương quân giải phóng thực sự bắt đầu vào tháng 12 năm 1965 ở A Lưới. Quân giải phóng đã bao vây ba căn cứ trên với những cuộc tấn công bằng bộ binh, kết hợp với sự yểm trợ bằng hoả lực cối. Quân ngụy đã buộc phải bỏ hai căn cứ, chỉ còn cố thủ ở một căn cứ tại A Sầu do các cố vấn Mỹ chỉ huy. Vào ngày 10 tháng 3 năm 1966, quân giải phóng mở hàng rào dây thép gai và công kích. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức quyết liệt. Hai bên giành giật từng tấc đất. Sau hai ngày tấn công liên tục, vành đai phòng thủ của quân ngụy bị chọc thủng và chúng phải tháo chạy. Quân Mỹ, ngụy đã tranh giành nhau lên trực thăng di tản một cách hỗn loạn. Để thoát thân, cố vấn Mỹ đã dùng súng tiểu liên bắn vào đám tàn quân ngụy để lên máy bay. Ngay từ trận quyết chiến đó, người Mỹ đã nhận xét “Không có một khu vực chiến sự nào khác trên đất nước này làm cho người ta đông máu lại giống như ở Thung lũng A Sầu”.
Theo người Mỹ, sau khi quân giải phóng tiêu diệt ba căn cứ trên địa bàn A Lưới, không có một căn cứ nào được xây dựng ở Thung lũng A Sầu. Về cơ bản quân Mỹ, ngụy đã không “để ý” đến A Sầu trong hai năm (thực chất là không thể kiểm soát được A Sầu). Chúng chỉ sử dụng lực lượng không kích và dùng phi pháo tầm xa để khống chế lực lượng “Cộng sản”. Quân giải phóng đã biến khu vực này thành một cơ sở hậu cần khổng lồ. Mặc dầu thám báo và trinh sát trên không đã phát hiện ra việc quân giải phóng mở rộng hệ thống mạng lưới đường mòn, phát hiện những đoàn xe di chuyển trên những con đường chưa được ngụy trang, các hang động cất dấu vật liệu quân sự, các kho quân nhu, các vị trí chiến đấu trên núi cao… tuy nhiên Tướng Wesmoreland không nhận thấy những gì rất nghiêm trọng xảy ra ở Thung lũng A Sầu (thực ra là biết được điều đó nhưng không thể làm được gì khác). Tên tướng chỉ huy sân khấu chiến trường của Mỹ ở miền Nam tin tưởng rằng các đô thị và vùng đồng bằng ven biển đã nằm trong tầm kiểm soát với các chiến dịch tìm diệt và bình định. Hắn bắt đầu âm thầm chuẩn bị mở các chiến dịch lên các thành trì của đối phương nơi rừng núi như A Sầu thì cuộc Tổng tấn công và nổi dậy năm 1968 đã nổ ra.
Sau tết Mậu Thân, lợi dụng lúc chúng ta gặp khó khăn, Wesmoreland tập trung tấn công vào A Lưới, A Sầu để trả thù cho những thất bại trong năm 1968. Nhiệm vụ của quân Mỹ là tiêu diệt thật nhiều quân chủ lực của ta, phá hủy các căn cứ hậu cần quan trọng của quân giải phóng, đẩy lực lượng quân giải phóng sang bên kia biên giới Lào, ngăn chặn quân giải phóng có thể mở một cuộc tấn công tương lai vào Huế như năm 1968. Nhiệm vụ này được giao cho Sư đoàn Kỵ binh bay số 1, sau đó là Sư đoàn Dù.
Trong số hai sư đoàn Thủy quân lục chiến và bảy sư đoàn bộ binh tham chiến ở miền Nam Việt Nam thì Sư đoàn Thủy quân lục chiến đã nếm đòn thất bại ở A Sầu. Wesmoreland đã cân nhắc, đặt niềm tin vào Sư đoàn Kỵ binh bay, sau đó là Sư đoàn Dù 101, hai sư đoàn là niềm kiêu hãnh của quân đội Mỹ. Cả hai sư đoàn này đều trực tiếp tiến hành các chiến dịch ở miền tây Thừa Thiên nhằm thực hiện ý đồ chiến lược của tên tướng tổng chỉ huy lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ, nhưng quân Mỹ đều bị sa lầy A Sầu, A Lưới và các huyện miền núi phía tây tỉnh Thừa Thiên.
Sau khi được thông qua kế hoạch, các lực lượng tác chiến của Sư đoàn Kỵ binh bay Mỹ bắt đầu vào chiến dịch với năm ngày liên tục không kích, kể cả việc sử dụng máy bay ném bom chiến lược B52. Hai tiểu đoàn tấn công hàng đầu của Sư đoàn Kỵ binh bay đã đổ bộ xuống khu vực A Sầu vào ngày 19 tháng Tư năm 1968. Cuộc tấn công mang mật danh Chiến dịch Delaware.
Đợt đổ bộ đầu tiên của quân Mỹ không gặp nhiều khó khăn, nhưng các đợt tiếp theo, khi máy bay trực thăng bay xuyên qua những đám mây thấp, súng máy các loại, đặc biệt là 12,7 ly, kể cả súng phòng không 37 của quân giải phóng bắn trả dữ dội. Mười chiếc trực thăng bị bắn rơi, hai mươi ba chiếc bị hư hỏng nặng. Người Mỹ phải thừa nhận “Không có một chiến dịch nào trước đó (quân đội Mỹ) phải trải qua lưới lửa phòng không của đối phương mạnh như vậy”. Tướng năm sao Wesmoreland phải vội vàng áp đặt tình trạng phong tỏa thông tin về chiến dịch Delaware để che dấu thất bại.
Mặc dầu lùng sục khắp thung lũng A Sầu với hai lữ đoàn và một trung đoàn biệt phái từ Sư đoàn bộ binh số 1 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nhưng chiến dịch thọc sâu với những cuộc tấn công của Mỹ, ngụy đã chấm dứt sau 28 ngày mà không thu được kết quả “như mong muốn”. Thực tế đó là một thất bại. Quân Mỹ, ngụy không nắm được quyền kiểm soát Thung lũng A Sầu. Chúng thừa nhận “hỏa lực phòng không của quân giải phóng quá hiệu quả. Thời tiết miền núi lại quá xấu… đối phương nhanh chóng xuất hiện từ trong các hang động hoặc lặng lẽ di chuyển từ bên kia biên giới Lào để giành lại Thung lũng A Sầu”.
Trận chiến ở A Sầu và Động A Bia của Sư đoàn Dù Mỹ
Bước tiếp theo ngay sau đó, Sư đoàn Dù 101 được lệnh chuẩn bị đánh chiếm A Sầu. Vào tháng Tám năm 1968, Tướng Creighton W. Abraham, người thay thế Tướng 5 sao Wesmoreland làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở miền Nam. Tên tướng này đã ra lệnh cho Sư đoàn Dù Mỹ tiến hành cuộc tấn công tiếp tục chặn đứng “quân Bắc Việt” sau chiến dịch Delaware.
Theo Zaffiri tác giả cuốn Đồi Thịt băm, lần này Tướng Stilwell, Tư lệnh quân đoàn 24 đã xây dựng một kế hoạch đầy tham vọng bao gồm 4 chiến dịch (Dewey Canyon, Masachusetts Striker, Apatche Snow, Montgomery Rendezvours), trong đó chiến dịch then chốt Tuyết rơi trên đỉnh Apatche (Apatche Snow) đánh lên Động A Bia nhằm kiểm soát thung lũng A Sầu, nhằm thực hiện các kế hoạch đã đề ra từ trước đó. Với kế hoạch này, chúng cho rằng “điều cần thiết bảo vệ thung lũng A Sầu là một lực lượng thường trực. Với những mối hiểm nguy khi tiếp tế bằng đường hàng không, điều cần thiết để duy trì một lực lượng thường trực là một con đường đi lại trong mọi thời tiết” từ căn cứ hậu cần của Sư đoàn Dù 101 “cách Huế 6 dặm về phía nam” tới A Sầu. Và chúng đã xây dựng một con đường từ hậu cứ của chúng tới chân những ngọn đồi trong thung lũng. Stilwell đã tung vào khu vực hầu hết lực lượng của 2 sư đoàn, Sư đoàn Thủy quân lục chiến và Sư đoàn Dù cùng với nhiều đơn vị không quân, pháo binh với sự hỗ trợ trên quy mô lớn nhất về hỏa lực, kể cả sử dụng nhiều máy bay ném bom chiến lược B52.
Theo Zafiri, Lữ đoàn 2 thuộc Sư đoàn Dù đã đi sâu vào A Sầu vào ngày 12 tháng Ba năm 1969. Trước đó đã diễn ra một số trận đánh rất ác liệt. Cả hai bên đều thể hiện rõ quyết tâm của mình. Khác với những trận chiến trước đó, quân giải phóng thường rút lui bảo toàn lực lượng. Lần này “quân Bắc Việt” đã trụ lại và chiến đấu với quân Mỹ. Để gây thêm áp lực, hai ngày sau, Lữ đoàn 3 thuộc Sư Dù Mỹ tiếp tục tiến quân vào A Sầu. Quân Mỹ lại tiếp tục thực hiện những cuộc không kích trên quy mô rộng lớn trước khi bắt đầu chiến dịch Tuyết rơi trên đỉnh núi nhằm cắt đứt đường rút lui của đối phương trong thung lũng. Một tiểu đoàn Mỹ tìm thấy Trung đoàn 3 Sư 324 đã đào hầm hào trên một điểm cao trong khu rừng rậm giữa núi rừng phía tây A Sầu. Điểm cao này theo người Mỹ, nó “được biết đến với cái tên là Động A Bia, và được đánh dấu là đồi 937 trên bản đồ địa hình, chiều cao của nó biểu thị bằng màu sắc cao hàng trăm mét trên mực nước biển”.
Trong chiến dịch Tuyết rơi trên đỉnh Apatche, hai tiểu đoàn Mỹ, một tiểu đoàn Ngụy trực tiếp tấn công lên Động A Bia với sự huy động tối đa về hỏa lực. Chỉ tính từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5 năm 1969, tức có 4 ngày, chi viện riêng cho một tiểu đoàn, Tiểu đoàn 3 thuộc Trung đoàn 187 của Mỹ, quân Mỹ đã nhận được sự hỗ trợ ngày đêm của 4 trận địa pháo: Một trận địa pháo 105mm, một trận địa pháo 155mm, một trận địa pháo 175, một trận địa pháo kích 8 inch với hàng vạn quả đạn, cộng với 271 cuộc không kích với hàng ngàn tấn bom quân Mỹ giội xuống Đồi A Bia. Quân Mỹ cho rằng sẽ không thể có một sinh vật nào còn sống sót trên và xung quanh quả đồi. Đất đá tơi vụn như bột tới gần nửa mét, thế nhưng quân Mỹ vẫn không thể nào “tiến lên được ngọn núi”.
Hai tiểu đoàn Mỹ, sau bổ sung thêm một tiểu đoàn Mỹ và một tiểu đoàn VNCH đã phải đi qua cái cối xay thịt để đánh chiếm một quả đồi. Bảy cuộc tấn công từ ngày 10 đến ngày 20 tháng 5, trong đó sáu cuộc tấn công thất bại… Sự tổn thất nặng nề trong trận chiến trên Đồi A Bia đã làm cho quốc hội Mỹ náo loạn, bất hòa, chia rẽ, buộc Lầu Năm Góc phải định hình lại cách chỉ đạo toàn bộ cuộc chiến tranh trên bộ của quân Mỹ ở Việt Nam. “Quân đội hiểu phải theo đuổi cuộc chiến đấu sau trận chiến trên trên Đồi A Bia là giảm thiểu tổn thất lính Mỹ còn quan trọng hơn so với việc đến gần kẻ địch”.
Đó là giá trị cực kỳ to lớn mà trận chiến đấu của Trung đoàn 3 trên Đồi A Bia đem lại. Qua trận chiến này, chiến lược gây áp lực tối đa cộng với việc sử dụng hỏa lực tối đa của Mỹ từ khi Mỹ tham chiến ở Việt Nam đã chính thức thất bại. Nó là cột mốc để Chính quyền Mỹ nhanh chóng thúc đẩy việc thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, nhanh chóng rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Kể cả sau khi các đơn vị quân giải phóng rút đi, quân Mỹ chiếm được Động A Bia, nhưng chỉ chưa đầy một tháng sau, quân Mỹ vẫn lại một lần nữa phải rút quân khỏi A Sầu, buộc phải thừa nhận “Quyền kiểm soát Thung lũng A Sầu thuộc về Bắc Việt”. Và trên thực tế, quân đồng minh chưa bao giờ thực sự nắm được quyền kiểm soát Thung lung A Sầu. “Giấc mơ” của hai đời Tổng Tư lệnh quân đội Viễn chinh Mỹ ở Việt Nam là Wesmoreland và Abrams nhằm kiểm soát Thung lũng A Sầu mãi mãi chỉ là “một giấc mơ”. Trung đoàn 3, Sư đoàn 324 chốt giữ A Bia đã góp phần quyết định để làm nên chiến thắng lịch sử này.
Kết luận
Đánh giá về trận A Bia người Mỹ có rất nhiều cuộc tranh cãi. Tác giả cuốn Đồi Thịt Băm đã viết: “Tranh cãi về trận Hamburger Hill đã dẫn đến một đánh giá lại về chiến lược của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Như một kết quả trực tiếp để giữ thương vong không cao quá mức, Tướng Abram ngừng chính sách gây áp lực tối đa chống lại quân giải phóng. Trong lúc đó Tổng thống Nixon đẩy mạnh thực hiện chiến lược mới là Việt Nam hóa chiến tranh và tuyên bố đợt rút quân viễn chinh đầu tiên khỏi miền Nam Việt Nam. Mặc dầu trận đánh chỉ thiệt hại ở mức tiểu đoàn, trung đoàn song nó đã trở thành một bước ngoặt trong chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Có thể nói trong cuốn Đồi Thịt băm và một số cuốn sách khác về mặt khách quan, nó đã phản ánh sự thất bại của các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, đặc biệt là sự phá sản của Chiến lược Chiến tranh đặc biệt, Chiến lược Chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Việt Nam. Trong đó, trận chiến trên động A Bia là dấu chấm hết cho Chiến lược Chiến tranh cục bộ, chuyển sang giai đoạn Mỹ thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa Chiến tranh và mở rộng cuộc chiến tranh ra toàn cõi Đông Dương. Lầu năm góc, các tướng lĩnh Mỹ và người Mỹ thừa nhận và ngầm hiều cái Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, chiến lược “thay đổi màu da xác chết” chẳng qua là để kéo dài thời gian, cứu vớt danh dự cho quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam. Như vậy là Quân và dân huyện A Lưới, Sư đoàn 324 đã góp phần quyết định làm nên cái kỳ tích mà người Mỹ đã thừa nhận trong cuốn sách Đồi Thịt băm và một số cuốn sách khác.
50 đã trôi qua, tôi nghĩ đã đến lúc giới nghiên cứu lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam, giới sử học, các tướng lĩnh cần nhìn nhận lại tầm vóc của trận đánh A Bia. Người Mỹ đã viết khá nhiều về trận A Bia, một trong 5 trận đánh kinh điển trong chiến tranh Việt Nam. Người Mỹ đã viết một cuốn sách dày hơn 300 trang về trận đánh A Bia, cuốn Humburger Hill (Đồi Thịt băm). Người Mỹ cũng đã đã viết 4 cuốn sách khác về Thung lũng A Sầu và A Bia. Đó là cuốn “Đại bàng gào thét trong vòng vây”, cuốn “ Cái chết ở Thung lũng A Sầu”, cuốn “Những hoạt động tác chiến của Mỹ tại Thung lũng tử thần”, cuốn “Địa ngục trên đỉnh đồi”. Người Mỹ cũng dựng một bộ phim dài về trận đánh A Bia. Còn phía Việt Nam thì quá khiêm tốn với trận chiến này, thậm chí nhiều người còn không biết đến trận chiến này.
Tôi đề nghị quân đội, các cấp chính quyền tỉnh Thừa Thiên, huyện A Lưới nên xây dựng tượng đài chiến thắng A Bia trên Đồi A Bia để vinh danh một chiến thắng có ý nghĩa to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta, để tưởng nhớ công lao to lớn của quân và dân huyện A Lưới, của hàng ngàn anh hùng liệt sỹ , trong đó có các anh hùng liệt sỹ Sư đoàn 324 và giáo dục truyền thống anh hùng bất khuất của quân và dân ta cho các thế hệ mai sau.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.