Tôi đã có sẵn hộ chiếu từ trước. Bước đầu tôi cảm thấy
mọi việc đều suôn sẻ, không giống như lần đầu tôi đi Thái. Nào là phải xin phép
cơ quan, xin phép phòng nội vụ, sở ngoại vụ. Hàng tháng trời chạy đi chạy lại
chạy giấy tờ. Thật là phiền toái. Bây giờ về hưu đi làm “ngoài”, tôi chẳng cần
phải xin phép ai cả. Nhưng tôi vẫn hơi lo lo. Bà chị vợ tôi và một số người
khác, mặc dù có sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu hàng trăm m2 đất, có nhà cửa
riêng, có sổ tiết kiệm gửi ngân hàng nhà nước hàng tỉ đồng, vậy mà mấy lần đóng
tiền xin visa vẫn không qua được vòng phỏng vấn. Trong khi đó, tôi chẳng có gì
hết. Tiền tiết kiệm gửi ngân hàng không có. Giấy tờ sở hữu đất đai không có. Nghề
nghiệp có thu nhập cao cũng không.
Hôm đến làm thủ tục, một nam nhân viên đứng trong quầy
kính, hỏi tôi bằng tiếng Việt khá thành thạo:
- Tôi
được biết giáo viên ở Việt Nam có thu nhập rất thấp. Vậy vợ chồng ông vẫn có tiền
để chu cấp cho hai con ăn học ở Mỹ. Hẳn hai vợ chồng ông phải dạy thêm rất nhiều
hoặc có những thứ tiền nào đó?
- Ông
nhầm rồi, tôi trả lời không đắn đo suy nghĩ, một số cán bộ, giáo viên ở Việt
Nam có tiền, thậm chí có rất nhiều tiền. Họ có đủ tiền mua đất đai, nhà cửa và
cho con cái đi du học nước ngoài. Tôi không nằm trong số đó. Gia đình tôi cũng
không nhận trợ cấp của ai. Đơn giản con tôi sang Mỹ học là chúng nhận được học
bổng.
Không biết tôi có suy diễn quá không, nhưng tôi cảm
thấy trong câu hỏi của nhân viên đại sứ quán có một hàm ý gì đó. Tôi nghĩ chắc họ
vừa đọc Báo cáo thường kì hàng năm của Tổ chức Minh bạch Quốc tế có trụ sở tại
Berlin. Báo cáo đã kết luận giáo dục Việt Nam là ngành tham nhũng thứ hai sau
ngành hành pháp ở Việt Nam. Là nhà giáo, mới đầu tôi cảm thấy rất bất bình. Nhưng
công tâm ngẫm kỹ, tôi thấy kết luận như vậy không hẳn là oan sai.
Không ít cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên hàng
ngày hàng giờ vẫn đang kinh doanh, kiếm tiền và làm giàu trong số 20 triệu học
sinh, sinh viên ở Việt Nam. Họ tư túi từ tiền ngân sách, tiền dự án đến tiền học
phí; đặt ra đủ các thứ tiền, từ tiền gửi xe đạp đến tiền vệ sinh trường lớp;
xoay sở từ tiền xây dựng đến tiền học thêm, từ tiền quỹ hội phụ huynh đến tiền
bán trú, từ tiền đồng phục đến tiền sách giáo khoa... Có khoảng hơn ba mươi thứ
tiền lạm thu mà người ta đã thống kê ra. Đơn giản chỉ chạy cho con vào một trường
học mầm non chất lượng cao trái tuyến cũng đã mất đến hàng nghìn đô, và cũng
khoản tiền như vậy để chạy vào các trường chuyên lớp chọn. Thậm chí xin đổi chỗ
ngồi cho con trong một lớp học thôi, có người cũng phải mất một vài tờ. Đó là
chưa kể đến hàng trăm chuyện thường ngày khác xảy ra ở các nhà trường.
Cái ý nghĩ bị người ta móc máy mình khiến tôi rất
khó chịu. Tuy nhiên tôi vẫn thận trọng trong từng câu chữ. Tôi không nói “chúng
xin được học bổng”. Tôi nói “chúng nhận được học bổng”. Tôi hoàn toàn bằng lòng
với câu trả lời của mình. Nó đúng với thực tế, vừa chứa đựng một ẩn ý, vừa
không có vẻ nhờ vả, xin xỏ. Tuy vậy việc xin và nhận trong trường hợp của các
con tôi có khác gì nhau nhiều lắm đâu. Lúc đó tôi ước rằng mình có nhiều tiền, trách
mình đã không biết tận dụng cơ hội kiếm tiền như người ta. Tiền không phải để
cho mình mà để cho con, để được nói với họ theo truyền thống của người phương Tây
là “tôi trả tiền cho con tôi đi học”.
Lúc đó sĩ diện nên tôi đã nghĩ như vậy. Hồi tâm lại
thấy mình sai. Chẳng lẽ mình dạy con từ nhỏ phải sống cho ngay thẳng, phải sống
trung thực, còn mình thì lại làm cái chuyện khuất tất, trái với lương tâm để được
cái không phải là của mình, để rồi đời cha ăn mặn đời con khát nước. Theo thuyết
của nhà Phật “nhân nào quả ấy”, sớm muộn người ta đều phải trả giá cho cái
tham, sân, si của chính mình.
Kết thúc buổi phỏng vấn, người nhân viên cười vui vẻ
chúc mừng. Tôi cám ơn, thở phào nhẹ nhõm. Xin được visa sang Mỹ có thể nói là
xong mọi việc. Tôi chỉ còn việc mua vé là lên đường. Có nhiều hãng hàng không,
trong đó có hàng không Việt Nam, nhưng tôi quyết định chọn chuyến bay của hãng
hàng không Mỹ sau khi đã tham khảo kỹ giá cả ở trên mạng. Việc lấy vé đi máy
bay bây giờ khác xưa rất nhiều. Không phải đi lại, chạy vạy, nhờ vả như khoảng
chục năm về trước. Tôi chỉ lên mạng, đăng ký trực tuyến, trả tiền qua thẻ tài
khoản của mình, tự in vé điện tử cùng lịch trình bay. Tất cả mọi cái đều thay đổi
nhanh chóng. Cái thay đổi lớn nhất, theo tôi, là thay đổi theo hướng đơn giản
hóa và minh bạch. Tôi chỉ việc đúng giờ ra sân bay và lên máy bay.
Thì ra các hãng hàng không trên thế giới và các hãng
hàng không trong nội địa đang cạnh tranh với nhau một cách khốc liệt. Họ hạn chế
đến tối đa việc sử dụng nhân lực. Khách hàng đồng thời trở thành người bán vé, trở
thành nhân viên thủ quỹ tự gửi tiền cho các hãng hàng không. Đổi lại, khách
hàng đi máy bay của hãng với giá rẻ, tiện ích và chất lượng phục vụ tốt nhất. Nếu
hãng nào không làm được như vậy thì sẽ không có khách và nếu không nhanh kịp điều
chỉnh thì tất phá sản. Giờ thì phần nào tôi hiểu tại sao một số tập đoàn, tổng
công ty độc quyền được nhà nước ưu đãi, trong đó có Vinalines lại làm ăn thua lỗ
đến hàng ngàn tỉ đồng.
Trước hôm lên đường, hai cô con gái ở bên Mỹ gọi, nhắc
nhở tôi phải đến sân bay trước hai tiếng để đề phòng những trục trặc không đáng
có. Bởi tính tôi dù đi đâu cũng tính đến sát giờ, không muốn phải đợi chờ. Cũng
chính vì vậy, năm trước khi Thuý cho con về nước chơi, tôi tính toán đưa hai mẹ
con đến sân bay Nội Bài để vào Thành phố Hồ Chí Minh thăm bố mẹ chồng quá sát
giờ, nên đến trễ một ít phút. Một ít phút thôi, Thúy và con cũng không được làm
thủ tục vào cửa, phải mua vé đi chuyến sau. Khi Thúy thắc mắc: “Ở Mỹ hành khách trễ đều được
đổi chuyến không phải mất tiền”. Nhân viên quầy bán vé bổ sung sẵng giọng: “Đây
là ở Việt Nam. Vì ưu tiên có con nhỏ nên chị mới được mua vé đi chuyến sau. Nếu
là người khác thì hôm sau hay hôm sau nữa cũng chưa chắc mua được vé”. Tôi vội
vã đưa hai triệu đồng cho cô gái xinh đẹp, mặc bộ áo dài tím thướt tha đang đứng
trong quầy bán vé bổ sung, rồi cầm lấy chiếc vé để được đi chuyến sau hai tiếng
nữa. Mặc kệ Thúy phàn nàn rằng chuyến hiện thời còn nửa tiếng nữa mới bay, rằng
ở Mỹ chẳng ai để một bà mẹ có con nhỏ trong tình trạng chờ đợi như thế này.
Tôi cứ áy náy vì cái tính không biết lo xa của tôi
nên Thúy mới trễ chuyến bay. Vấn đề không phải là tiền nong mà là sức khỏe của cháu
Lâm. Tôi biết Thúy xót con vì phải chờ đợi quá lâu nơi công cộng, đành nhận lỗi
về phần mình: “Tại ba lề mề, nếu không giờ con đã ở trên máy bay rồi”. Biết tôi
buồn Thúy nói chuyện để tôi khuây khỏa. Thúy kể về những chuyến đi từ Việt Nam
qua Nhật sang Mỹ, kể về những chuyến bay nội địa ở Mỹ được các tiếp viên, được
mọi người giúp đỡ như thế nào. Cuối cùng Thúy kết luận: “Ba đã đi nước ngoài dăm
ba lần, chắc hẳn có cái cảm giác cứ đi hoặc đi về đến sân bay của mình là y như
rằng có chuyện bức bối. Bác Thắng (bạn tôi định cư ở Phần Lan) đã có lần chẳng
nói với ba là về nước thường bị gây khó khăn và thường bị vặt là gì”. Tôi chỉ
cười xòa, không trả lời, vì thực ra tôi chẳng có gì để bức bối, và cũng chẳng
bao giờ bị ai vặt cái gì trong những lần từ nước ngoài về. Tôi không muốn tranh
luận với Thúy. Nếu ta cứ so sánh phong cách ứng xử của một xã hội hậu công nghiệp
đi trước hàng trăm năm với một xã hội nông nghiệp đang trong quá trình công
nghiệp hóa thì thật khập khiễng.
Khoảng 70 % dân số Việt Nam đang làm ruộng với tư
duy nông nghiệp lúa nước. Phần lớn cán bộ, viên chức của nhà nước cũng mới chỉ
vừa thoát thai từ cái xã hội nông nghiệp. Thậm chí nhiều người trong số họ, ngày
đi làm việc công, chiều tối về vẫn tranh thủ ra đồng “chồng cày vợ cấy”, thế
thì người ta làm sao tránh khỏi cái tâm lý tiểu nông: Tự tư, tự lợi. Tôi chợt
nhớ đến anh Hùng, bạn học xưa có thời học tập ở Liên Xô vào đầu những năm 70. Khi
anh về nước, nói chuyện với bạn bè, anh thường so sánh ở Nga với ở Việt Nam,
phong cách làm việc giữa người Nga và người Việt, trường học Nga và trường học
Việt. Chúng tôi thường châm chích anh là sính Tây. Lúc đầu anh còn phân bua,
sau cũng chẳng chấp chúng tôi làm gì. Bây giờ đến lượt Thúy, lại so sánh giống như
bạn tôi ngày trước.
Có một chuyện tôi đồng cảm với Thúy. Chẳng là tháng
trước, chồng Thúy ở bên Mỹ được cử sang Trung Quốc công tác, có ghé về thăm bố
mẹ đẻ tại thành phố Hồ Chí Minh. Vé khứ hồi do bộ phận văn phòng của cơ quan
bên Mỹ đặt mua. Từ Mỹ qua Nhật về đến Thành phố Hồ Chí Minh thì không có vấn đề
gì. Nhưng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Thượng Hải thì chồng Thúy không đi được.
Lý do là vì tên của chồng Thúy trong vé không đúng với tên trong visa. Chồng
Thúy giải thích thế nào cũng không được qua cửa.
Trong tất cả các giấy tờ, kể cả vé đi máy bay, người
Mỹ thường ghi tên người Việt nói riêng, người châu Á nói chung lên đầu, tên đệm
và họ ở sau. Điều này thì hình như không đúng với visa thông lệ chung của riêng
hai nước Việt - Trung, đặc biệt là quy định riêng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi
Thượng Hải. Cuối cùng sợ lỡ chuyến bay, bố chồng Thúy phải bỏ ra mấy chục triệu
đồng mua vé mới kịp chuyến bay cho con
trai. Điều đó làm cả gia đình đằng chồng Thúy rất bức xúc. Nhưng điều lạ là sau
đó, cũng vẫn chiếc vé ban đầu ấy, chồng Thúy từ Thượng Hải trở về Mỹ lại không
gặp sự cố gì. Vậy thì trong chuyện này ai đúng ai sai?
Điều Thúy không hiểu là vẫn còn rất nhiều cơ quan,
doanh nghiệp, cá nhân trong nước theo thói quen thời quan liêu bao cấp, thường bắt
các cá nhân, các cơ quan, doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài phải theo thông lệ
của nước mình, thay cho việc mình phải theo thông lệ quốc tế. Ngay cả ở trường
nơi tôi công tác vào đầu năm 2008, khi văn phòng yêu cầu giáo viên chủ nhiệm đăng
kí họ tên học sinh và ngày tháng năm sinh cho một cuộc khảo sát quốc tế, theo
phần mềm thông lệ quốc tế, lúc in ra giấy để giáo viên kiểm tra lại, việc máy
tính đưa tên lên trước tên họ và tên đệm, đưa tháng lên trước và ngày sau đã bị
gần như cả hội đồng xì xào, cười chê. Họ lập luận với tôi rằng: “Tưởng thế nào,
thì ra máy tính lại có tháng 13 đến tháng 31. Máy tính đấy. Máy với chả móc. Tất
cả đều thua con người hết”. Và trong con mắt họ, tôi trở thành kẻ kỹ trị lạc
lõng bênh vực cho phương Tây. Nhưng điều đáng buồn hơn là cho đến tận ngày hôm
nay, phần lớn các nhà trường phổ thông vẫn quản lý nhân sự, quản lí học sinh bằng
các loại sổ sách truyền thống. Người ta vẫn tính điểm trung bình các môn học bằng
cách tính toán như những năm 60 của thế kỉ trước.
Thì ra vấn đề hội nhập của Việt Nam, ngay cả đối với
các cán bộ và công chức trong nhà máy xí nghiệp, trong trường học, bệnh viện vẫn
còn là một vấn đề rất nan giải. Nhưng thôi, đó là vấn đề của xã hội, không liên
quan gì đến tôi. Vấn đề của tôi là phải cố gắng để hội nhập, nếu không, tôi sẽ
không lên được máy bay của bất kì hãng hàng không quốc tế nào, chứ đừng nói đến
việc sống và làm việc ở nước ngoài.