Mục đích tôi đi sang Mỹ lần này là thăm các con, các
cháu, đồng thời dự lễ phát bằng tốt nghiệp của cô con gái thứ hai. Ngoài ra, tôi cũng muốn
thăm một số trường học ở vài tiểu bang để tìm hiểu thực tế về nền giáo dục Mỹ, nhất
là về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy và thăm dò khả năng hợp
tác, trao đổi học sinh trong dịp hè giữa trường tôi và một trường đối tác X nào
đó nếu có thể. Đặc biệt trong chuyến đi này, bố mẹ tôi còn muốn tôi đi thăm đáp
lễ ông chú, người con nuôi gốc Hoa của bà nội tôi ở bang California. Mấy năm vừa
rồi, tết nào ông cũng về Việt Nam thăm gia đình tôi và mời gia đình tôi sang Mỹ
chơi, nhưng bố mẹ tôi đã già, không thể đi xa được.
Ngoài lý do cá nhân riêng tư, đã từ lâu tôi rất muốn
được đặt chân đến nước Mỹ, quốc gia lớn thứ 3 trên thế giới với diện tích 9,83
triệu km2, 50 bang, dân số ba trăm mười bốn triệu người. Tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) của Mỹ năm 2013 trên 15,4 nghìn tỉ đô la, chiếm gần 23% GDP toàn cầu. Thu
nhập bình quân xấp xỉ 50 nghìn đô la đầu người trên năm. Người dân nước Mỹ thuộc
nhóm nước có thu nhập bình quân cao nhất thế giới. Dù trải qua khủng hoảng kinh
tế, dù nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ đang trên con đường suy yếu thì sức mạnh
tổng hợp của quốc gia, sức mạnh về kinh tế, sức mạnh về quân sự, sức mạnh về
khoa học công nghệ đến giữa thế kỷ 21 cũng chưa chắc có quốc gia nào cạnh tranh
với Mỹ được.
Riêng đối với
mỗi người Việt Nam thuộc thế hệ trước, và thế hệ chúng tôi, nước Mỹ còn có quá
nhiều duyên nợ kích thích trí tò mò để tìm hiểu, để khám phá. Đầu những năm 50
của thế kỷ trước, khi đã chuẩn bị xong khúc dạo đầu cuộc Chiến tranh lạnh với học
thuyết mang tên Tổng thống Harry Truman, Kế hoạch phục hưng châu Âu (kế hoạch Marshall)
và thành lập Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm chống lại Liên Xô và
bao vây các nước Xã hội chủ nghĩa, Tổng thống Mỹ Harry Truman đã thay đổi thái độ về cuộc chiến tranh ở
Đông Dương, tuyên bố viện trợ trực tiếp cho quân đội Pháp. Thực tế, Đế quốc Mỹ
đã chi bình quân mỗi năm 1 tỷ USD, đảm
nhiệm đến 80% chi phí cho thực dân Pháp trong cuộc chiến tranh ở Đông
Dương.
Năm 1954, khi Hiệp định Giơnevơ về việc lập lại hòa
bình, thống nhất cho dân tộc Việt Nam chưa giáo mực, đế quôc Mỹ đã thay thế
Pháp tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam cho đến năm 1975. Đây là một cuộc
chiến tranh kéo dài và khốc liệt nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Từ năm 1954 đến năm
1975, trải qua 5 đời tổng thống, Nhà Trắng đã chi hàng trăm tỉ USD, huy động
hàng triệu lượt binh sĩ Mỹ và binh sĩ của 5 quốc gia khác vào chiến trường Việt
Nam. Kết quả là người Mỹ đã thua trong cuộc chiến sau khi để mất trên ba ngàn
máy bay, hàng trăm tàu chiến hiện đại, 57.259 binh sĩ tử trận, 303.704 người bị
thương. Và đặc biệt là cuộc chiến này đã để lại một hậu quả hết sức nghiêm trọng
cho nước Mỹ, như nhiều sử gia Mỹ đã viết, một “ Hội chứng Việt Nam” trong lòng
nước Mỹ.
Với Việt Nam thiệt hại còn lớn hơn đối phương rất
nhiều, vì trong chiến tranh , đế quốc Mỹ quyết tâm đưa Việt Nam trở về thời kỳ
đồ đá. Tất cả những vũ khí hiện đại nhất, tất cả những phương tiên chiến tranh
trừ bom nguyên tử đều được huy động tối đa vào cuộc chiến trong những năm 1960 đến nửa đầu những năm 1970. Suốt mấy chục năm, qua ba cuộc chiến tranh, rồi bao
vây cấm vận thù địch từ những năm 1980 đến năm 1995 đã để lại cho đất nước này
một di sản hoang tàn, khủng hoảng trầm trọng. Đau thương nhất là hơn hai triệu
người con ưu tú hy sinh và ngần ấy bà mẹ, người vợ quặn thắt nỗi đau mất con, mất
chồng. Gần 40 năm đã trôi qua, hàng triệu bà mẹ vẫn mòn mỏi mơ về con, có người
đến lúc hấp hối vẫn còn hy vọng một ngày nào đó con mình sẽ trở về. Có biết bao
người phụ nữ Việt Nam đêm đêm vẫn run run thắp nén hương cho con, cho chồng...
Đến giờ, khi tôi nhớ lại cảnh nhiều bà mẹ,
nghẹn ngào tiễn con ra trận trong chiến tranh, trong số đó nhiều người chết lặng
đi trong lễ báo tử mà không cầm được nước mắt.
Tôi biết một bà mẹ ở miền Trung, bà mẹ Thứ ở thôn
Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Hồi trẻ bà là một cô
gái đẹp của vùng trồng dâu nuôi tằm bên dòng sông Thu Bồn. Lớn lên khi lập gia
đình, mẹ Thứ sinh được mười hai người con. Năm 1949 cùng lúc mẹ nhận được ba giấy
báo tử của các con hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tiếp đến, sáu người
con lần lượt hy sinh trong chiến tranh chống Mỹ. Cũng trong thời điểm ấy, mẹ lại
nhận được giấy báo tử của con rể và cháu ngoại. Tôi không hiểu người Pháp, người
Mỹ có ai đo được nỗi đau xé lòng của bà mẹ này? Và có người Pháp, người Mỹ nào
bù đắp để làm vợi đi một phần sự đau thương đến tột cùng này? Riêng cá nhân
tôi, cứ đến ngày 27 tháng 7 hàng năm, khi đi viếng nghĩa trang liệt sĩ, găp lại
những bà mẹ, những người vợ nức nở bên mộ chồng, mộ con, lòng tôi lại nghẹn
ngào, nước mắt giàn giụa.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc. Tôi ngỡ tưởng
hòa bình sẽ trở lại dài lâu. Nào ngờ hết chiến tranh ở mặt trận Tây Nam lại đến
mặt trận phía bắc. Tôi càng thêm thấu hiểu câu nói của ông cha mình “Vật đổi
sao dời” và mới thấy hết ý nghĩa lời của một chính khách người Anh “Không có đồng
minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích dân tộc là vĩnh
viễn”.
Trong bối cảnh mới, Việt Nam phải tìm cách chuyển hướng
đối ngoại, thương thảo gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á, thúc đẩy bình thường
hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Tháng 7 năm 1995, Việt Nam chính thức là thành viên thứ
7 của ASEAN. Đó là kết quả của của việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở,
đa dạng, đa phương hóa, chủ động hội nhập của Việt Nam. Gia nhập ASEAN là một
quyết sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng. Nó
vượt qua cái thời kỳ nghi kỵ, thù địch giữa Việt Nam với các nước trong khu vực.
Nó có thể chấm dứt cảnh tan đàn xẻ nghé do những tác động từ bên ngoài. Kể từ
đây, Việt Nam bắt đầu đi chung trên một con thuyền ASEAN, cùng các nước hợp tác
làm ăn, đầu tư thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cùng chèo chống trước bão giông
sóng cả để giữ vững hòa bình và ổn định khu vực. Điều này, trước đó chưa hề có,
vì một thời các nước Đông Nam Á bị lôi cuốn vào chiến tranh Việt Nam và sau đó
là bao vây cô lập Việt Nam khi Việt Nam cứu giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt
chủng.
Với Mỹ, Việt Nam có những cam kết và thiện chí trong
vấn đề nhân đạo tìm kiếm lính Mỹ bị chết trong chiến tranh. Đáp lại, tháng 3
năm 1993 Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm các khoản vay song phương, đa phương dành cho Việt
Nam, mở đường cho Việt Nam tiếp cận các khoản vay tín dụng nước ngoài. Sau hai
mươi năm kể từ khi kết thúc cuộc chiến, ngày 12 tháng 7 năm 1995, Việt Nam và
Hoa Kỳ mới chính thức bình thường hóa quan hệ. Thực ra trước đó hai nước đã có
những cuộc tiếp xúc vào những năm 1977 và 1978, nhưng có lẽ tình hình thế giới
và quan điểm hai bên còn quá khác biệt, thêm vào đó là thời gian chưa đủ cho
hai bên quên đi tiếng súng đạn của một thời để đến với nhau.
Từ chỗ là kẻ thù của nhau, bây giờ quan hệ Việt Nam -
Hoa Kỳ đã phát triển mạnh mẽ. Hai nước đã tạo được nền tảng vững chắc trên nhiều
lĩnh vực, từ chính trị , an ninh , quốc phòng đến kinh tế, thương mại, đầu tư,
giáo dục, y tế, khoa học kỹ thuật, các vấn đề nhân đạo, giải quyết hậu quả chất
độc da cam, hợp tác trong các vấn đề khu vực và toàn cầu như ứng phó với biến đổi
khí hậu, chống khủng bố, không phổ biến vũ khí hạt nhân… Tính đến hết năm 2013,
kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai nước đạt trên 20 tỷ USD. Tổng vốn đầu
tư đăng ký của Mỹ vào Việt Nam lên tới 13, 24 tỷ USD. Nếu người tiêu dùng Mỹ biết
đến hàng may mặc, giày dép, cà phê, cao su, đồ gỗ, con tôm, con cá, hoa quả của
người Việt Nam thì người Việt Nam đã biết đến Citibank, Intel, Microsoft, IBM,
GE, Chevron, máy bay Boing của Mỹ.
Hai nước đã xây dựng được khuôn khổ quan hệ đối tác
tích cực, hữu nghị, hợp tác nhiều mặt trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng
và cùng có lợi. Bước phát triển trong quan hệ giữa hai nước không chỉ là hàn gắn
vết thương chiến tranh, thể hiện ở sự mở rộng các lĩnh vực hơp tác cùng có lợi
mà còn ở sự khẳng định ủng hộ lẫn nhau trong quan hệ quốc tế, nhất là hòa bình,
ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực Đông Nam Á và cả châu Á Thái Bình Dương.
Đặc biệt trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang theo lời mời của
Tổng thống Obama từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 26 tháng 7 năm 2013, hai bên đã
nâng mối quan hệ hai nước thành mối quan hệ đối tác toàn diện; định hình và làm
sâu sắc hơn mối quan hệ song phương trong giai đoạn mới cả về bề rộng và chiều
sâu trong các lĩnh vực kinh tế , thương mại, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo,
kể cả an ninh và quốc phòng. Kết quả chuyến thăm cũng khẳng định sự cam kết của
hai bên nhằm hoàn tất đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP),
hiệp định có thể giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế
giới, thúc đẩy các mục tiêu phát triển, tạo thêm nhiều công ăn việc làm ở Việt
Nam.
Nhìn lại mối quan hệ Việt – Mỹ, bắt đầu từ năm 1845,
khi chiếc thuyền Constitution của Hoa Kỳ cập bến Đà Nẵng, thuyền trưởng John
Percival đến liên lạc với triều đình nhà Nguyễn nhằm đặt mối quan hệ bang giao.
Rồi đến năm 1873, vua Tự Đức cử sứ thần sang Mỹ cầu viện nhưng không thành. Năm
1919, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi Bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam tới Hội nghị
Vécxây cho Tổng thống Mỹ Wooddrow Wilson nhưng không được hồi âm. Đến đầu những
năm 40 của thế kỷ trước, cơ quan OSS, tiền thân CIA đã giúp đỡ Việt Minh thuốc
men, vũ khí để chống phát xít Nhật. Việt Minh cũng giúp lực lượng Mỹ tin tức
tình báo, cứu giúp các binh lính Mỹ ở Việt Nam. Và ngay sau khi giành độc lập,
tháng 3 năm1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết thư cho Tổng thống Truman đề nghị
phía Mỹ Công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và thiết lập mối quan hệ
bang giao giữa hai quốc gia. Nhưng do những lý do lịch sử, những cơ hội đó đã bị
phía Hoa Kỳ bỏ qua. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, mối quan hệ giữa hai
nước có thể ví như “ Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh”. Tiếp đến, có thêm cả
một chương hơn hai mươi năm dài đầy máu và nước mắt cho cả hai dân tộc. Theo
tôi, đã đến lúc nên biến cái di sản đau buồn của hai nước thành tài sản, biến
chúng thành tình hữu nghị, hơp tác; vì hai nước có những lợi ích chung và vì nó
có thể giúp Việt Nam mạnh lên trong thử thách hiện tại và tương lai.
Vả lại, những người lính thuộc hai chiến tuyến năm
xưa trực tiếp xung trận, sinh tử đối đầu nhau cũng đã gác lại quá khứ, trao cho
nhau những kỷ vật đầy xúc động của những người đã mất như cuốn Nhật ký của liệt
sĩ Đặng Thùy Trâm, Nhật ký của liệt sĩ Vũ Đình Toàn, những bức thư được viết
chưa kịp gửi trong thời khắc cuối cùng cuộc đời của Trung sĩ Steve Flaherty. Cựu
binh Mỹ Homer ở bang Virginia, người đã bắn chết một chiến sĩ mà người ta gọi
là Cộng sản, cũng đã tìm đến một làng quê hẻo lánh ở Thái Bình sau gần 40 năm
chiến tranh kết thúc, để trao lại chiếc ba lô cho vợ người lính bên kia chiến
tuyến và cầu xin sự tha thứ sau bao nhiêu năm đằng đẵng dằn vặt... Tôi tin rằng
những lợi ích trước mắt và những lợi ích lâu dài sẽ tiếp tục đưa mối quan hệ
hai nước tới một tương lai tốt đẹp hơn.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét