Đêm
thứ hai ở Chicago, tôi nghỉ ngơi và uống rượu tại nhà Thăng cùng với hai anh bạn
trẻ Huy và Hùng. Sáng dậy, Thăng tiếp tục đưa tôi đến thăm hai điểm: Bảo tàng Cửa
sổ Kính màu Smith và Khu Trung tâm trưng bày các công trình kiến trúc của Hội
Kiến trúc Chicago. Sau đó, chúng tôi đến thăm Trường Đại học Chicago (The
University of Chicago). Đây là trường đại học nghiên cứu tư thục. Trường được Hội
Giáo dục Baptist Hoa Kỳ thành lập năm 1890 từ khoản tiền hiến tặng của tỉ phú dầu
lửa John D. Rockefeller.
University
of Chicago bao gồm Trường Đại học Chicago (College of Chicago) và 6 trường
chuyên nghiệp (School) cùng với một trường giáo dục thường xuyên. Trường Đại học
Chicago còn có 4 phân khoa sau đại học: Khoa Sinh học, Khoa Vật lí, Khoa Nhân
văn và Khoa Xã hội. 6 trường chuyên nghiệp là Trường Y khoa (The Pritzker
School of Medicine), Trường Kinh doanh (The Booth School of Business), Trường
Thần học (The Divinity School), Trường Luật (The Law School), Trường Nghiên cứu
Chính sách công (The Harris School of public Policy Studies) và Trường Quản trị
Dịch vụ Xã hội (The School of Social Service Aministration). Ngoài ra nhà trường
còn điều hành 12 viện nghiên cứu, 6 thư viện, một Trung tâm Y khoa, 113 Trung
tâm Nghiên cứu theo dự án và một hệ thống trường thực nghiệm từ mầm non tới
THPT (University of Chicago Laboratory Schools).
Năm
học 2014, theo thống kê trên trang web University of Chicago, nhà trường có
2.168 giảng viên, 14.772 nhân viên, 5.134 sinh viên đại học, 9.820 học viên sau
đại học. Theo số liệu trên thì số cán bộ, giáo viên, công nhân viên nhiều hơn số
lượng sinh viên. Chẳng trách học phí bình quân một năm là trên 41.000 đô. Tiền
tài trợ của trường hiện có khoảng 6,8 tỉ đô la. Nếu so sánh số tiền tài trợ của
Đại học Chicago với số tiền tài trợ của Đại học Harvard (32 tỉ đô la) thì quả
là khiêm tốn. Nhưng chỉ với 6,8 tỉ đô thì cũng đã đủ là niềm mơ ước của hầu hết
số các trường tư nổi tiếng trên thế giới.
Tuy nhiên, với Đại học Chicago, vấn đề quan trọng
là phát triển các lĩnh vực học thuật khác nhau chứ không phải là vấn đề tiền.
Tiêu chuẩn để được vào nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại trường cực kì khắt
khe. Chưa đến 10% các ứng viên sáng giá được nhận vào trường. Khẩu hiệu cho mỗi
cán bộ giáo viên, nhân viên và sinh viên của Đại học Chicago là “Hãy làm giàu
thêm kiến thức và nhờ đó làm phong phú thêm cuộc sống của nhân loại”. Với tinh
thần đó, Đại học Chicago đã xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng riêng biệt
cho mình: Trường phái Kinh tế học Chicago, Trường phái Xã hội học Chicago, Trường
phái Phê bình Văn học Chicago, Trường phái Nghiên cứu Tôn giáo Chicago, Trường
phái Khoa học Chính trị cùng với thuyết hành vi và Phong trào Luật, Kinh tế học
trong Phân tích Pháp lí…
Đại
học Chicago luôn được xếp là một trong những trường đại học hàng đầu của thế giới.
Ngôi trường này đã quy tụ và đào tạo được 89 người đã từng đạt giải thưởng
Nobel (trong số này hiện có 10 giáo sư đang trực tiếp giảng dạy tại trường), 49
học giả Rhodes và 9 người nhận Huy chương Fields cùng hàng ngàn những giải thưởng
danh giá khác. Việt Nam có 2 nhân vật lỗi lạc trong lĩnh vực toán học và vật lí
là giáo sư Ngô Bảo Châu (Giải thưởng Fields), Giáo sư Đàm Thanh Sơn (Viện sĩ Viện
Hàn lâm Khoa học Mỹ) cũng hiện đang giảng dạy tại đây.
Rất
tiếc cả hai giáo sư có việc về Việt Nam dự hội thảo nên tôi không gặp được. Tôi
cứ băn khoăn tự hỏi, điều gì khiến nhân tài của cả thế giới đều đổ dồn về Mỹ.
Tôi nghĩ có lẽ không phải là vấn đề tiền bạc. Trung Quốc có 8 bộ óc lỗi lạc nhất
được giải thưởng Nobel trong các lĩnh vực khoa học, trước và sau khi nhận giải
thưởng cao quý này, họ đều nhập quốc tịch Mỹ. Chắc chắn Trung quốc có thừa tiền
để đảm bảo cuộc sống vật chất cho các nhà khoa học và gia đình của họ, nhưng vẫn
không giữ chân được họ ở lại quê hương. Ngay đến Giáo sư Ngô Bảo Châu, người từng
được một trường đại học hàng đầu của Trung Quốc mời về làm việc với mức lương
cao hơn ở Mỹ nhưng ông đã khước từ lời mời. Tại sao lại như vậy? Tôi nghĩ vấn đề
ở chỗ nước Mỹ đã tạo ra được một môi trường kinh tế, xã hội, chính trị và học
thuật để kích thích các nhà khoa học nghiên cứu, sáng tạo và phát triển. Cũng
chính vì thế Giáo sư Đàm Thanh Sơn mới giã từ cương vị giáo sư giảng dạy ở Đại
học Tổng hợp Quốc gia Moskva nổi tiếng mang tên ML. Lomnosov để đến Đại học
Chicago.
Thời
gian của tôi ở Chicago không có nhiều. Tối nay, tôi cùng Huy và Hùng dự một buổi
dạ hội và xem biểu diễn ca nhạc, nên Thăng phải gọi cho tôi một tour xe điện đi
thăm trường Đại học Chicago. Thăng phân trần: “Chỉ có cách này mới đáp ứng được
yêu cầu của anh hai. Em mang tiếng là dân du lịch, nhưng chỉ biết giới thiệu
chung chung về thành phố và những điểm tiêu biểu trong thành phố. Còn về các
trường đại học thì có tour riêng của họ. Vả lại, em cũng không am hiểu lắm về
chúng”. Người lái xe đến sau ít phút. Ông lần lượt bắt tay chúng tôi rồi dẫn
tôi đi thăm trường và giới thiệu về các cơ sở trong trường.
Nhìn
chung, khuôn viên Trường Đại học Chicago cũng giống như khuôn viên các trường đại
học khác tôi đến thăm: Đều rất rộng, đều rợp bóng những hàng cây, đều thênh
thanh những thảm cỏ, đều rực rỡ với những vườn hoa, đều tràn ngập không khí thể
thao, âm nhạc và học thuật. Nhìn vào kiến trúc gothic của những tòa nhà từ cuối
thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, những tòa nhà hiện đại từ những năm 1930 đến những năm
1980 và những tòa nhà siêu hiện đại từ những năm 1990 trở lại đây, người ta vừa
thấy được bề dày lịch sử cũng như vừa thấy được những nét riêng biệt của một
ngôi trường thuộc một trong những thành phố lớn nhất của Hoa Kỳ.
Người
giới thiệu đưa tôi đến trước một tòa nhà, một tòa nhà đồ sộ, nằm trên trục
chính của trường Đại học Chicago. Tòa nhà chia làm 3 khối liền nhau, hai khối 4
tầng nằm trải dài hai bên; ở giữa là khối nhà 5 tầng và trên chính giữa của khối
nhà 5 tầng sừng sững một đài tưởng niệm hình khối vươn lên trời cao. Đó là Thư
viện Harper, thư viện mang tên người hiệu trưởng đầu tiên, định hình con đường
đi cho Đại học Chicago, một con người can đảm, đầy nhiệt huyết và có tầm nhìn
xa trông rộng. Thư viện Harper lưu trữ gần 9 triệu đầu sách, là một trong những
thư viện lớn nhất của Mỹ và cũng là một trong số 15 thư viện đẹp nhất thế giới.
Thư viên Harper là thư viện trung tâm nằm trong hệ thống 6 thư viện lớn và 11
thư viện nhỏ của các cơ sở trực thuộc nhà trường.
Được
các kiến trúc sư nổi tiếng của Viện Nghệ thuật Chicago thiết kế, bản thiết kế
thư viện được lấy cảm hứng từ các thư viện nổi tiếng của châu Âu và Mỹ theo
phong cách gothic thanh lịch. Đặc biệt là những nét chạm khắc tinh xảo của Thư
viện Oxfort, Cambridge, Harvard, Yale… cũng được các kiến trúc sư đưa vào thiết
kế chi tiết tại thư viện này. Thư viện bắt đầu khởi công xây dựng từ tháng 1
năm 1910 đến tháng 6 năm 1912 mới hoàn thành. Năm 1970 thư viện được tôn tạo lại.
Trong những năm gần đây có nhiều sự thay đổi. Hai triệu bản sách được chuyển tới
các thư viện thành viên để lấy không gian cho các lớp học và cho các phòng hành
chính. Hiện tại tầng trên cùng của tòa nhà chuyển thành không gian mở dành cho
các nhóm hợp tác và nghiên cứu 24 giờ với cái tên gọi mới là Harper Memorial
Library Commons.
Không
chỉ là thư viện có số lượng sách khổng lồ với những giá sách đầy ắp quý hiếm từ
thời con người mới có chữ viết, từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại cho đến ngày nay
mà thư viện còn có kiến trúc độc đáo bên trong khiến tôi hoàn toàn bị mê hoặc.
Từ lúc tôi bước vào tòa nhà đến khi lên tầng trên cùng, tất cả hành lang, trần
nhà, cửa ra vào đều giống như những tác phẩm nghệ thuật. Đặc biệt là vào phòng
đọc chính, tôi thấy rất rộng nhưng không gợi cho người ta cái cảm giác trống trếnh
vì những tấm thảm màu ghi ấm cúng trải kín khắp căn phòng. Toàn bộ vòm trần phòng
đọc làm bằng thủy tinh mờ sáng dìu dịu. Áp sát vòm trần là một mạng lưới giá đỡ
bạch kim như những ngôi sao gắn kết nhau lại. Bên dưới giá đỡ, những hàng đèn
chùm màu tỏa sáng kì ảo.
Dọc
theo phòng đọc, có hai dãy khung cửa sổ gỗ cuốn vòm màu cánh kiến. Bên trong
khung cửa sổ trang trí, những tấm kính màu in hình những bức tranh nghệ thuật
tinh xảo. Trung tâm của căn phòng có đến hàng trăm bộ bàn ghế sang trọng bằng gỗ
dành cho người đọc. Trên mỗi chiếc bàn đọc, người ta đặt một chiếc đèn chụp pha
lê có núm điều chỉnh độ sáng. Tôi thử ngồi lên một chiếc ghế. Thật thoải mái.
Chỉ còn thiếu một cuốn sách là tôi trở thành một bộ phận trong số hàng trăm độc
giả đang ngồi trong căn phòng tráng lệ và sang trọng này.
Thấy
tôi quan tâm đến thư viện, ông hướng dẫn viên gợi ý nhỏ nhẹ: “Ông có muốn đến
Thư viện Regenstain không? Đó mới là thư viện hiện đại nhất của Đại học
Chicago”. Tôi hẹn ông dịp khác vì không có thời gian. Trong thâm tâm tôi cứ thấy
tiêng tiếc. Đã đến đây mà không vào thăm Regenstain thì thật uổng. Giá tôi có một
tuần lễ ở đây. Một trường đại học mà có tới 17 thư viện. Chỉ điều đó thôi cũng
đã thể hiện được lí tưởng cao đẹp của trường đại học danh tiếng này. Tôi còn được
biết hệ thống thư viện không chỉ phục vụ cán bộ giáo viên sinh viên của nhà trường
mà còn phục vụ bất kì người dân nào trong thành phố. Ai cũng có quyền tới thư
viện đọc và mượn sách. Kể cả tôi muốn đọc sách gì thì cứ việc vào kho sách mà lấy.
Có khó khăn gì thì cứ hỏi các nhân viên trong thư viện. Người ta sẽ tận tình
giúp đỡ để ai cũng hài lòng khi đến nơi đây. Và vì vậy, thư viện thật sự là điểm
đến gần gũi, một nơi thân thiện để cho những người theo đuổi tri thức tiếp cận
được những cuốn sách cần nhất, có giá trị nhất.
Theo
yêu cầu của tôi, người hướng dẫn đưa tôi đến thăm Hệ thống các trường giáo dục
thực nghiệm của trường. Tôi không biết mục đích chiến lược của mô hình hệ thống
trường thực nghiệm trong trường đại học là gì? Nó là hệ thống trường dành cho
các nhà khoa học sư phạm, các giáo viên sư phạm của Trường Đại học nghiên cứu,
thể nghiệm những ý tưởng liên quan đến quá trình phát triển nhận thức, phát triển
tâm sinh lí trong khoa học giảng dạy và rèn luyện các kĩ năng nghề nghiệp cho
giáo sinh hay là một trường thực nghiệm theo đuổi một triết lí giáo dục, một
nguyên lí giáo dục, một phương thức giáo dục nào đó giống như mô hình giáo dục
của Trường thực nghiệm Giảng Võ Hà Nội do Giáo sư Hồ Ngọc Đại đứng đầu.
Trường
được Joln Dewey, một nhà triết học, một nhà tâm lí học, một nhà giáo dục và cải
cách giáo dục thành lập năm 1896. Trải qua hơn một thế kỉ phát triển, hệ thống
các trường trở thành một cơ sở giáo dục tốt nhất ở Chicago. Nhà trường đã cung
cấp nhiều học sinh ưu tú theo học tiếp ở Trường Đại học Chicago và cung cấp nhiều
học sinh ưu tú theo học ở các trường đại học hàng đầu của Mỹ cũng như của thế
giới. Năm học 2013-2014 có 1850 học sinh, phần lớn là con em cán bộ giáo viên
nhân viên của trường Đại học Chicago theo học. Ngoài ra nó còn thu hút học sinh
xuất sắc từ 45 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới theo học tại đây.
Qua
tìm hiểu tôi thấy mô hình hệ thống trường thực nghiệm của Đại học Chicago hoàn
toàn không giống như tôi nghĩ. Nó cũng không giống với các mô hình trường quốc
tế ở Việt Nam. Mục tiêu ban đầu của hệ thống trường thực nghiệm là xây dựng các
nhà trường thành môi trường mà các giáo viên và học sinh cùng nhau học tập. Học
sinh học tập và trải nghiệm thông qua việc việc vừa học vừa làm, vừa học vừa
chơi. Nhà trường hoàn toàn tôn trọng tính độc lập và tinh thần dân chủ của cả
thầy lẫn trò. Triết lí của nhà trường là tự do, dân chủ.
Theo
thời gian những mục tiêu trên được bổ sung và phát triển thêm những nguyên lí
như phát huy tính tích cực chủ động; phát triển tư duy tích cực. Ngày nay,
ngoài những giá trị trên, các nhà trường trong hệ thống còn tiếp tục cam kết
tăng cường Chương trình giáo dục tiên tiến (Chương trình giáo dục tiên tiến cho
từng khối lớp được phát tới từng phụ huynh, được cụ thể hóa trong từng học kì,
từng tháng và công khai đăng tải trên trang mạng của nhà trường) để giúp học
sinh phát triển tư duy phản biện, phê phán và khả năng hợp tác, sáng tạo cũng
như xây dựng ý thức học tập suốt đời. Mô hình này cũng na ná như mô hình các
trường tư của Mỹ mà tôi đã đi thăm.
Tôi
có cảm nhận hình như trường tư Mỹ tiên tiến và có sức sống hơn các trường công.
Ở Missourri, ở Colorado, ở Chicago và ở cả thủ đô Washington DC, tôi thấy nhiều
người Mỹ phàn nàn về chất lượng của các trường công. Ngay cả trên các phương tiện
thông tin đại chúng, nhìn chung dư luận cho rằng các trường công của họ đang có
vấn đề. Cho nên đa số tầng lớp trí thức và những gia đình giàu có đều cho con
đi học trường tư ngay từ mầm non.
Cho
dù trường công của Mỹ có trì trệ đi chăng nữa thì tôi vẫn thấy, những điều mà cải
cách giáo dục Việt Nam sắp làm là chuyển từ nền giáo dục từ trang bị kiến thức
cho học sinh để đi thi sang nền giáo dục phát triển năng lực, kĩ năng cần thiết
cho học sinh, thì người Mỹ họ đã làm cách đây hàng thế kỉ rồi. Trong khi chúng
ta vẫn đang loay hoay cấu trúc lại các cấp học, đang tranh luận chương trình và
sách giáo khoa, tức là bàn cãi xem học cái gì và dạy cái gì, thì người Mỹ chỉ
tranh luận với nhau học để làm gì và phải học như thế nào. Điều đó có nghĩa là
chúng ta mới tư duy giáo dục ở thời kì Văn minh Nông nghiệp (nền văn minh đẻ ra
một nền giáo dục sử dụng bút lông) cộng với tư duy giáo dục ở thời kì Văn minh tiền
Công nghiệp (nền văn minh đẻ ra nền giáo dục sử dụng bút máy/bi). Còn người Mỹ
đang ở một nền giáo dục của nền văn minh tri thức (nền văn minh đẻ ra nền giáo
dục sử dụng máy tính, mạng internet). Cho đến khi thăm hệ thống trường thực
nghiệm của Đại học Chicago tôi mới tự giải đáp hết băn khoăn rằng tại sao học
sinh Mỹ lại không mang sách vở, bút mực và sách giáo khoa đến trường. Thì ra mọi
cái đều có ở trong máy tính và ở trên mạng (mạng của trường, các mạng giáo dục
của bang và của liên bang).
Hệ
thống trường thực nghiệm Chicago bao gồm 5 trường: Trường mầm non, Trường tiểu
học từ lớp 1 đến lớp 2, Trường tiểu học từ lớp 3 đến lớp 5, Trường THCS từ lớp
6 đến lớp 8, Trường THPT từ lớp 9 đến lớp 12. Trường có chương trình riêng cho
từng cấp học và từng môn học; có sách giáo khoa của trường riêng cho từng cấp học
và từng môn học; có mạng riêng cho từng cấp học và từng môn học. Học sinh của
trường có ưu thế là được sử dụng tất cả các nguồn lực của trường Đại học
Chicago từ thư viện, phòng thí nghiệm đến việc tiếp xúc, giao lưu, học tập, thậm
chí được cùng làm việc với các sinh viên xuất sắc và các nhà khoa học hàng đầu
thế giới.
Người
giới thiệu dẫn tôi đến tòa nhà Blaine Hall, tòa nhà dành cho các cháu học mầm
non. Tòa nhà này xây năm 1903, mang phong cách kiến trúc cổ điển. Bên ngoài tòa
nhà có rất nhiều bụi dây leo phủ kín từ chân tường lên đến tầng ba và lên đến tận
mái nhà. Nó gợi cho người tham quan cái cảm giác rêu phong về thời gian.
Các
phòng học đều trải thảm, đồ chơi xếp đầy trên các giá gỗ, có các góc học tập
theo chủ đề. Mỗi lớp khoảng 15 đến 20 học sinh, một cô giáo chủ nhiệm và hai cô
giáo phụ. Theo lời người giới thiệu và cô trợ lí giám đốc điều hành, các cháu mầm
non của trường được học cách chơi với đồ chơi và chơi để tìm hiểu, khám phá.
Các giáo viên tạo điều kiện cho các cháu chủ động làm quen với các bạn, phát
triển ngôn ngữ, năng lực tư duy và phát triển nhận thức xã hội. Ngoài ra các
cháu còn được học và thực hành cách chia sẻ những ý tưởng, biết lắng nghe người
khác, biết làm thành viên của một nhóm. Giáo viên cũng trú trọng đến các hoạt động
hỗ trợ các cháu nhận biết toán học, nhận biết chữ viết và làm quen với môi trường
xung quanh…
Ấn
tượng nhất ở trường mầm non là việc tôi thấy các cháu được học ở trong phòng
thư viện. Một thầy giáo đạo mạo, trang nghiêm (ở Việt Nam tôi chưa thấy một thầy
giáo nào dạy ở mầm non. Ở cấp tiểu học thầy giáo cũng rất ít. Có nhà sư phạm
cho rằng tính cách của các boy vì thế đang có xu hướng mang tính cách girl) hướng
dẫn các em bé tí tẹo vào phòng đọc, phòng thông với hai bên là kho sách đầy ắp.
Thầy cầm một cuốn sách ở trên giá, vừa kể vừa làm động tác mô phỏng. Giúp thầy
còn có một cô giáo rất trẻ, cô cùng thầy đối thoại theo những nhân vật trong
chuyện. Cô cũng làm các động tác phụ họa, mô phỏng cùng thầy. Các cháu cứ dán mắt
nhìn vào. Nhiều em trong lớp đứng lên bắt chước các động tác của thầy cô rất ngộ
ngĩng…
Tôi
bỗng nhớ lần đến thư viện thành phố Columbia, các mẹ Mỹ đến thư viện đọc sách,
đưa con gửi ở phòng nghe cho các nhân viên thư viện kể chuyện cho bé. Thì ra
người Mỹ, thư viện Mỹ đã dạy các bé đến thư viện ngay từ lúc mới chập chững biết
đi. Và khi mới vào mẫu giáo thôi, các bé lại được nhà trường tiếp tục nuôi dưỡng
niềm đam mê với sách trong thư viện. Không biết ở Việt Nam có bao nhiêu trẻ em
được bố mẹ đưa đi thư viện, bao nhiêu học sinh được thầy cô và nhà trường đưa đến
thư viện hướng dẫn đọc sách? Vả lại nếu có muốn cũng không được. Các cháu cần
phải học thêm để đi thi, để lấy thành tích và để nhà trường, thầy cô thu tiền.
Lấy đâu ra thời gian vào thư viện. Đó phải chăng cũng là sự khác biệt về chất
giữa hai nền giáo dục?
Tiếp
theo tôi đến tòa nhà Belfield Towers và tòa nhà Judd Hall. Hai tòa nhà này dành
cho học sinh tiểu học. Kiến trúc của chúng cũng giống như tòa nhà Blaine Hall.
Trong phòng học, các thiết bị dạy, học và bàn ghế cũng giống như các trường phổ
thông khác của Mỹ mà tôi đã có dịp đến thăm. Mỗi lớp học cũng vẫn chỉ khoảng 20
học sinh, một giáo viên chủ nhiệm và một số giáo viên chuyên biệt. Cô giáo trợ
lí giám đốc điều hành cho tôi biết, học sinh tiểu học được cung cấp kiến thức cốt
lõi về nghệ thuật ngôn ngữ, toán học, khoa học tự nhiên và xã hội. Ngoài ra học
sinh còn được học âm nhạc, nghệ thuật, thể dục, máy tính, ngoại ngữ theo phương
châm nhà trường phải giúp đỡ học sinh khả năng sáng tạo, tinh thần hợp tác;
giúp học sinh học cách suy nghĩ; khuyến khích trí tưởng tượng, sự tò mò khoa học
và ý kiến cá nhân; tìm hiểu vấn đề qua hoạt động học và thực hành. Còn về phần
giáo viên, giáo viên thực hiện đúng chương trình của nhà trường nhưng vẫn được
đảm bảo quyền tự chủ; phát huy tính sáng tạo, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu và lợi
ích của học sinh.
Tòa
nhà Trường THCS &Trường THPT cùng với các phòng chức năng được xây dựng từ
cuối những thập kỉ trước, rất hiện đại nhưng vẫn hài hòa trong khung cảnh
chung. Học sinh hai cấp này bắt buộc phải học các môn nghệ thuật ngôn ngữ, toán
học, khoa học, khoa học xã hội và nhân văn, thể dục, âm nhạc, nghệ thuật và một
số môn tự chọn giống như các trường công mà tôi đã được đến thăm. Chỉ có điểm
khác là ở Trường THCS thực nghiệm, do tính phức tạp tâm sinh lí độ tuổi, nhà
trường quy định mỗi học sinh phải có một giáo viên phụ trách hay một cố vấn thường
xuyên nói chuyện về tất cả các vấn đề mà không được phép phán xét học sinh đó.
Có nghĩa là học sinh có quyền tự do trong tất cả các vấn đề trừ việc vi phạm những
điều pháp luật Hoa Kỳ cấm.
Ở
cấp THPT, chương trình có một số môn bắt buộc và tự chọn mang tính nâng cao,
mang tính thử thách hơn khung chương trình chung quy định. Mục đích cũng chỉ để
phát huy tính độc lập và sáng tạo của học sinh để học sinh biết trình bày, phân
tích kiến thức trong sách vở và những vấn đề trong thực tế cuộc sống với tinh
thần tự tin; đồng thời hoàn thiện một số kĩ năng để học sinh bước vào cuộc sống
sinh viên.
Khi
ra về, tôi được cô trợ lí giám đốc điều hành tặng một quyển sách giới thiệu tổng
quan về hệ thống các trường thực nghiệm. Như vậy tôi có trong tay tròn một tá
handbook và sách giới thiệu về các nhà trường phổ thông đủ các loại hình. Tôi
nhận ra rằng có 4 cụm từ mà các ông, các bà hiệu trưởng, các trợ lí và các giáo
viên thường xuyên nhắc đến, 4 cụm từ mà trong các quyển handbook và sách giới
thiệu về các nhà trường thường xuyên nhắc đi nhắc lại nhiều nhất trong giáo dục,
đó là: Tính độc lập, tư duy phản biện, sự hợp tác và tinh thần sáng tạo. Họ ít
nói về mục tiêu. Họ ít nói về nguyên tắc. Họ ít nói về kế hoạch, về chỉ tiêu, về
biện pháp, về việc phấn đấu, về việc thi cử. Họ rất ít đề cập đến thành tích của
mình. Có chăng nói đến thành tích thì đó là thành tích trong lĩnh vực thể thao
và âm nhạc.
Chưa
thể kết luận giáo dục phổ thông của Mỹ là một nền giáo dục tiên tiến hàng đầu
thế giới, nhưng chắc chắn rằng nó đã góp phần không nhỏ để nước Mỹ trở thành một
siêu cường trong gần 100 năm ở thế kỉ 20 và có lẽ nó còn góp phần không nhỏ để nước
Mỹ có thể giữ được vị thế siêu cường số 1 trong suốt thế kỉ hai mươi mốt này. Bởi
một lẽ đơn giản, học sinh của họ là những con người có tính độc lập; có tư duy
tích cực và phản biện; có tinh thần hợp tác; có sự sáng tạo. Đó là những phẩm
chất đảm bảo cho đội ngũ nhân lực của họ đủ sức cạnh tranh và thành công trong
nền kinh tế tri thức, nền kinh tế khởi nguồn từ chính nước Mỹ.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét