Rời
sân bay Nội Bài vào lúc 10h50, trên đường đi, tôi cứ suy nghĩ miên man. Nếu
không có chuyến đi này có lẽ tôi chỉ có chút ít hiểu biết về Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Triều Tiên (CHDCNDTT- Bắc Triều Tiên) và Đại Hàn Dân quốc (ĐHDQ- Hàn
Quốc) từ năm 1945 đến nay. Đó là những kiến thức về lịch sử và quan hệ quốc tế
mà tôi đã được học ở bậc đại học và sau đại học. Có thể nói một cách tổng quan
hai miền Triều Tiên là sản phẩm của cuộc Chiến tranh Lạnh sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ hai. Giữa hai miền đã nổ ra một “cuộc chiến tranh ủy nhiệm” từ năm
1950 đến năm 1953. Đến năm 1991, hai miền Triều Tiên chính thức gia nhập Liên Hợp
Quốc và trở thành hai quốc gia độc lập phát triển theo hai con đường riêng: Xã
hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa.
Nhờ
có chuyến đi này tôi mới dành thời gian tìm hiểu trên Wikipedia tiếng Việt, tiếng
Anh về CHDCNDTT và ĐHDQ. Hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại đã tạo ra hai nước
Triều Tiên. Nhưng trong tâm thức người Triều Tiên, cũng giống như người Việt,
không thể một dân tộc mà có hai miền, dù hiện tại họ là hai quốc gia.
Theo
tiếng Triều Tiên từ Triều Tiên có nghĩa là buổi sáng tươi đẹp. Dân tộc Triều
Tiên thuộc một trong những sắc tộc thuần
nhất, là một dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới. Con người đã từng
có mặt trên bán đảo này từ thời kì đồ đã cũ. Họ sử dụng chung ngôn ngữ riêng biệt
là tiếng Triều Tiên, có hệ thống chữ viết đặc thù Hangul. Quốc gia Cổ Triều
Tiên thành lập năm 2333 trước Công nguyên. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, cho đến khi Triều đại Triều Tiên (1392-1910) kết thúc, Triều Tiên trở
thành thuộc địa của Nhật Bản. Và những gì diễn ra sau đó thì tôi đã trình bày
trong bài viết trước.
Lịch
sử hiện đại đã chia cắt họ. Trong hơn 60 năm qua người Triều Tiên đã làm tất cả
những gì cần làm để có một quốc gia thống nhất, giống như trong quá khứ họ đã từng
làm, chống lại phong kiến Trung Quốc, Nhật Bản, thoát khỏi ách đô hộ của Đế quốc
Nhật sau hơn một thế kỉ. Giờ đây, Bán đảo này lại nằm trong sự toan tính lợi
ích của bốn nước lớn Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản. Cho đến lúc này tôi mới thấm
thía với tâm sự của một nhà nghiên cứu chính trị Hàn Quốc “Cái kì tích sông Hàn
mà các bạn nói với chúng tôi, nếu so với kì tích thống nhất đất nước Việt Nam, về
phương diện lịch sử, chính trị, văn hóa, cái nào mới đích thực là kì tích của một
dân tộc”?
4h
sáng theo giờ Việt Nam, máy bay hạ cánh. Ở sân bay quốc tế Incheon, trời đất vẫn
còn tờ mờ. Nhìn ra xung quanh sương giăng mờ ảo. Xa xa chỉ thấy những dãy núi
chạy dài. Bước vào cầu cảng, dọc theo chỉ dẫn qua cổng sân bay đi đến các nước,
tôi bắt đầu thấy hình ảnh của một Hàn Quốc thu nhỏ dần hiện ra.
Mặc dầu đọc một số bài viết trên Wikipedia và
các tài liệu tham khảo trên các trang báo nhưng đó là những thông tin thuần thúy sách vở.
Còn bây giờ tất cả bỗng thấy trực quan sinh động khi tôi đến sân bay. Hai bên lối
đi thang máy là đường đi bộ trải thảm màu ghi. Hệ thống dich vụ chức năng, các cửa
hàng choáng ngợp chạy dài tít tắp với hệ thống đèn đủ các mầu. Tôi bắt đầu có ấn
tượng hiện thực về sự phát triển, sự hiện đại, sự náo nhiệt, sự phồn hoa và cả
sự chu đáo tinh tế của người Hàn qua so sánh với những sân bay tôi đã đi qua.
Người
ta nói với tôi trong thời gian chờ chuyển tiếp sang Mỹ, tôi có thể đăng kí vào
nghỉ theo giờ ở khách sạn năm sao, giá cả rất phải chăng, có đầy đủ các dịch vụ
giải trí, nghỉ ngơi, có người đánh thức và đưa đến tận quầy chuyển tiếp làm thủ
tục đi đúng giờ, nhưng tôi không muốn lãng phí thời gian cho việc giải trí, ngủ
nghỉ mặc dù rất muốn xem xem cái khách sạn này như thế nào.
Tôi
hỏi thăm một nhân viên tìm đến Bảo tàng Văn hóa Triều Tiên (The Museum of
Korean Culture), cái tên không hề gợi lên có hai đất nước Triều Tiên. Tôi lên
thang máy tới tầng trên cùng của khu cầu
cảng. Bên tay trái tôi là một bảo tàng xinh xắn, cửa gỗ màu cánh kiến đóng im
lìm. 5h30 mới mở cửa. Tức là còn một tiếng nữa. Tôi định xuống một tiệm cà phê
nào đó nhâm nhi ăn sáng để chờ đợi, chợt thấy bên phải cầu thang máy, bên trái
bảo tàng có khoảng 20 chiếc giường đệm da sang trọng cho khách nằm nghỉ. Có ba
bốn thanh niên nam nữ người nước ngoài đang ngủ. Tôi không thấy có một sân bay quốc tế nào tôi đã đi
qua có cái dịch vụ tốt như thế này. Thật thoải mái khi nằm trên tấm đệm êm ái, ấm
áp, miễn phí chợp mắt một lúc.
Ánh
sáng chói lòa chiếu vào mặt khiến tôi tỉnh giấc. Tôi đã ngủ được một tiếng rưỡi.
Vội vàng trở lại bảo tàng, một cô gái còn trẻ ngồi trước một cái bàn nhỏ đứng dậy
nói bằng tiếng Anh mời tôi vào. Lác đác có một số người nước ngoài đang chăm
chú theo dõi những hình ảnh, hiện vật ở bên trong.
Bảo
tàng không lớn như tôi hình dung, nhưng có đến bẩy khu trưng bày hiện vật cùng
hình ảnh minh họa bằng video kèm theo máy tính. Ngoài ra còn bốn phòng chuyên
biệt trưng bày, giới thiệu nghệ thuật truyền thống, âm nhạc truyền thống, văn
hóa hoàng gia và văn hóa in khắc.
Tôi
xem khá kĩ từng khu, từng phòng, những hình ảnh, hiện vật, âm thanh từ trong
quá khứ hàng ngàn năm đầy sống động thức dậy trí tưởng tượng của tôi. Những bản
in khắc, những tác phẩm theo các thể loại, những bức tranh, hình ảnh những ngôi
chùa cùng tượng phật, những hiện vật đồ gốm, đồ kim loại, những đồ dùng, sinh
hoạt của tầng lớp hoàng gia đến tiện dân, những kiểu quần áo, trang trí hoa
văn, những công trình kiến trúc điêu khắc, những di sản về văn hóa nghệ thuật cứ
lôi cuốn hấp dẫn tôi. Đúng là một kho tàng đầy tính trí tuệ, nhân văn, đem lại
cho người xem, với tôi đúng hơn là thưởng thức những giờ phút thật tuyệt vời.
Tôi thấy hoàn toàn thỏa mãn khi được ghé qua nơi này.
Không
biết điều gì đã làm tôi rung động đến như vậy ở xứ xở xa xôi này. Nhất là khi
tôi nhìn vào hàng chục cuốn sách dày cộp, những công trình về khảo cổ, văn hóa
Triều Tiên. Tôi lướt qua đề mục một vài cuốn. Chốc chốc lại nhìn đồng hồ xem đến
giờ đi chưa. Tôi ước tại sao thời gian chuyển tiếp không phải là mười tiếng hay
là một ngày. Thật là tiếc. Chắc đoán được tâm trạng tôi. Cô gái Hàn Quốc tủm tỉm
cười, đến bên cạnh đưa cho tôi một tập sách giới thiệu về văn hóa Triều tiên để
tôi có thể xem trên máy bay. Phải chăng đó là sự tương đồng về lịch sử văn hóa
lâu đời giưa hai dân tộc Việt-Triều; cả hai đều chịu ảnh hưởng của văn hóa
Trung hoa, nhất là về đạo Khổng, đạo Phật cùng với số phận bi hùng của các cuộc
chiến tranh từ phương Bắc, phương Tây.
Không
chỉ vì đồng châu, đồng chủng, đồng văn, tôi chợt nghĩ tới dòng họ Lý ở Việt
Nam, khi nhà Trần đoạt quyền lực bằng một cuộc chuyển giao ngoạn mục nhưng cũng
vô cùng đẫm máu, một bộ phận trong hoàng tộc đã chạy sang xứ xở buổi sáng tươi
đẹp này để sinh tồn vào năm 1226, để rồi đầu những năm 2000, đại diện cho chi tộc
Lý ở Hàn Quốc mang gia phả về nhận lại tổ tiên trong những ngày hội ở đền Lý
Bát đế tại xứ kinh Bắc Việt Nam. Thật là một câu chuyện dài đầy bất ngờ và cảm
động. Tôi cũng chợt nghĩ đến một nhà trí thức xứ Kim Chi quỳ xuống để cầu xin
người dân Bình Định ở Việt Nam tha thứ cho những hành động man rợ của binh lính
Hàn Quốc trong một vụ thảm sát hơn năm mươi năm trước; một tượng đài ở Hàn Quốc
sắp được dựng lên để ghi nhớ những tội ác đáng hổ thẹn trong quá khứ của họ. Và
cho đến ngày hôm nay, hàng trăm ngàn cô dâu đất Việt, vì những lí do lịch sử,
kinh tế đã đến làm dâu đất Hàn. Có những số phận bi thảm, nhưng đại đa số những
người phụ nữ đó đã tìm được hạnh phúc nơi đất khách quê người. Cũng có lẽ vì thế
tôi có thiện cảm với người Triều Tiên chăng. Cũng chính vì thế nên những hiện vật,
hình ảnh, âm thanh trong bảo tàng đã khiến tôi vô cùng xao động, trân trọng,
ngưỡng mộ.
Thêm
vào đấy, Hàn quốc đã trở thành nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Tôi sẽ trình bày
một bài viết về đầu tư của ĐHDQ vào Việt Nam và quan hệ thương mại giữa hai nước
cũng như quan hệ của Việt Nam với CHDCND Triều Tiên trong một bài viết sau. Chỉ
biết rằng so với người láng giềng Trung Quốc to tảng gần gũi “bốn tốt” cùng thể
chế chính trị, tổng số vốn của họ đầu tư vào Việt Nam thật nhỏ nhoi; công nghệ
thì lạc hậu, gây ô nhiễm; chất lượng thì kém cỏi; giá cả đấu thầu thì rất rẻ
sau đó thì đội vốn lên. Ngay cả cái công trình ống nước Sông Đà về Hà Nội, một
công trình mang tính biểu tượng, trực tiếp liên quan đến sinh hoạt của người
dân thủ đô, một năm đưa vào sử dụng mới vỡ đường ống có mười ba lần. Hay cái
công trình đường sắt Hà Nội mới đội vốn gấp đôi, thời gian kéo dài chắc hẳn một
đến hai năm. Và hiện tại nó vẫn cứ ngổn ngang nhức nhối. Đó là tôi chưa kể họ
kéo sang một số lượng nhân công “chính quốc” đông đảo quá mức để giành giật bát
cơm manh áo của người Việt.
Không
hiểu tại sao lại có những kẻ táng tận lương tâm vì quyền lợi riêng kí kết với
nhà thầu Trung Quốc cung cấp ống nước Sông Đà giai đoạn hai để người dân thủ đô
chịu biết bao ngày mất nước bức xúc. Thật may mắn, chính quyền Hà Nội đã can
thiệp, yêu cầu bãi chức kẻ kí mua hệ thống tàu cũ, tạm dừng việc kí kết lấy ống
nước sông Đà giai đoạn hai, cách chức giám đốc công trình xây dựng nước sông Đà.
Tôi
trộm nghĩ cứ cái đà này không chỉ có hàng ngàn, hàng vạn người, những người Việt
không kiềm chế nổi việc người Tàu bành trướng trên Biển Đông, những người ở
trong nước và ngoài nước đã phẫn nộ xuống đường biểu tình, mà có lẽ trong tương
lai họ còn xuống đường biểu tình với người Tàu về những chiêu thức kinh tế thâm
hiểm và về hàng bẩn độc và đầu tư thương mại kiểu Tàu. Vì thế tôi càng thêm quý
mến các tập đoàn tư bản Hàn Quốc. Họ thuộc về một đẳng cấp văn minh cao hơn nhiều
so với Trung Quốc, đất nước mới nghèo trở thành trọc phú.
Về
phương diện nhà nước, hai nhà nước Triều Tiên trong thời gian Chiến tranh Lạnh,
từ năm 1950 đến 1991, đương nhiên là hai nhà nước Triều Tiên thù địch lẫn nhau vì
cái ý thức hệ chủ nghĩa tư bản giãy chết thối nát và cái tư tưởng bất cộng đái
thiên. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, và đặc biệt khi Kim Chủ tịch qua đời,
quan hệ hai miền bắt đầu được cải thiện. Sự cải thiện này chủ động thuộc về
ĐHDQ. Đáng lưu ý nhất là Chính sách Ánh dương, chính sách ngoại giao Hàn Quốc
thực thi từ năm 1988 do Tổng thống Kim Dae Jung đề xướng, ông đã được giải thưởng
Nobel về hòa bình năm 2000. Chính sách này đã đưa đến sự hợp tác chính trị to lớn
trong lịch sử quan hệ liên Triều.
Hai
cuộc họp thượng đỉnh liên Triều diễn ra tại Bình Nhưỡng tháng 6, 2000 và tháng
10, 2007 đã đem lại một số dự án kinh tế thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế,
cùng với kết quả những cuộc gặp mặt ngắn
ngủi đầy nước mắt của những gia đình Triều Tiên li tán hơn sáu mươi năm sau chiến
tranh.
Chính
sách Ánh dương dựa trên ba nguyên tắc: 1, Không khiêu khích quân sự; 2, Miền
Nam sẽ không cố gắng thu hút Miền Bắc bằng bất cứ cách nào; 3, Miền Nam chủ động
tìm kiếm sự hợp tác. Chính sách này gửi đi một thông điệp là Hàn Quốc không
mong muốn thôn tính hoặc ngầm phá hoại Bắc Triều Tiên. Mục tiêu là cùng chung sống
hòa bình, thúc đẩy đối thoại, hợp tác tiến tới hòa giải và thống nhất hai miền
Triều Tiên. Lộ trình con đường tươi đẹp này sẽ đi qua ba giai đoạn: 1, Hai miền
thành lập một nhà nước liên bang; 2, Liên bang bao gồm chính quyền tự trị của
hai miền; 3, Hai miền có thể chọn hai phương thức thành thành lập chính quyền
trung ương và tự trị.
Rất
đáng tiếc là hai miền có quá nhiều sự nghi kị, đặc biệt là phía CHDCNN Triều
Tiên, phía cảm thấy yếu thế đã không tận dụng được cơ hội này để đáp ứng lòng
mong mỏi của người dân hai miền. Có ý kiến cho rằng, phía Bắc Triều Tiên chỉ lợi
dụng tình cảm của người dân hai miền để tranh thủ nguồn viện trợ của Hàn Quốc
và quốc tế, lấy viện trợ để phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và đầu tư vào
quốc phòng. Có ý kiến cho rằng trở ngại lớn nhất là 38.000 quân Mỹ đóng ở Hàn
Quốc và chính sách thù địch của Mỹ. Có ý kiến cho rằng đứng đằng sau là Trung
Quốc vẫn tiếp tay cho Triều Tiên dùng Triều Tiên để mặc cả với Mỹ về nhiều vấn
đề lợi ích của họ… Và chính sách Ánh dương đã tắt ngấm.
Dường
như phía Hàn Quốc hiểu được nguyên nhân chính sách Ánh dương của họ thất bại, tuy
nhiên Seoul vẫn kiên trì đề ra chính sách ngoại giao Xây dựng niềm tin ở Đông
Á. Một mặt Seoul vẫn thắt chặt liên minh với Mỹ, một mặt họ thực hiện chính
sách xây dựng niềm tin nhằm cải thiện và duy trì sự ổn định quan hệ với Bắc Triều
Tiên, Trung Quốc và Nhật Bản.
Seoul
xây dựng niềm tin với Bình Nhưỡng nhằm ngăn chặn nguy cơ hạt nhân và thúc đẩy
hòa bình, ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Họ nhìn vấn đề xa hơn là phải thúc đẩy
Sáng kiến hòa bình và hợp tác ở Đông Bắc Á để tạo ra sự tin tưởng, thúc đẩy hợp
tác Trung-Nhật-Hàn làm động lực. Đi xa hơn nữa là tăng cường quan hệ với các nước
thành viên ASEAN, Ấn Độ và châu Âu để thúc đẩy kinh tế cũng như về chính trị
trong vấn đề giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Họ hiểu rằng không
thể có một bán đảo Triều Tiên hòa bình, thống nhất mà không có sự ủng hộ của
Trung Quốc. Và họ đã lầm. Trung Quốc thực chất không làm được điều như Hàn Quốc
từng mong đợi, ngoài việc muốn duy trì tình trạng chia cắt bán đảo Triều Tiên.
Cho
đến nay, không những không có sự thay đổi nào trong quan hệ với Bắc Triều Tiên
mà đối với Nhật Bản còn nguội lạnh vì vấn đề lịch sử và tranh chấp lãnh thổ.
Quan hệ với Trung Quốc có nồng ấm nhưng vẫn xung đột hợp tác an ninh chính trị
đến nỗi chính phủ Hàn Quốc phải triệu đại sứ Trung Quốc tới chất vấn, gửi công
hàm yêu cầu phía Trung Quốc giải thích rõ phát ngôn của người đại diện cho Đại
sứ quán ở Seoul về vấn đề triển khai hệ thống tên lửa THAAD có phải là quan điểm
của Chính phủ Trung Quốc hay không. Tình hình còn căng thẳng hơn rất nhiều khi
Bình Nhưỡng liên tục thử các loại tên lửa đạn đạo cùng với những cố gắng thu gọn
vũ khí hạt nhân vào đầu đạn tên lửa.
Trong
khi đó Mỹ vẫn không thay đổi chính sách đối với CHDCNN Triều Tiên như đã từng
thay đổi với Myanma, Iran và Cu Ba do phía Triều Tiên bất hợp tác trong những vấn
đề cốt lõi, chỉ đòi hỏi Mỹ rút quân và ngừng tập trận với ĐHDQ. Chính sách của
Mỹ là bảo vệ Hàn Quốc thông qua việc giải trừ toàn bộ vũ khí hạt nhân; ngăn chặn
chiến tranh và bảo vệ đồng minh; ủng hộ hai miền thống nhất một cách hòa bình;
tiếp tục hợp tác chặt chẽ về chính trị quân sự với Hàn Quốc và quốc tế nhằm yêu
cầu CHDCNN Triều Tiên có các hành động thực chất, tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế.
Hàn
Quốc từ trước đến nay vẫn tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ, chấp nhận quân đội Mỹ, nhận
sự bảo hộ an ninh của Mỹ và chấp nhận sự triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa
tầm cao giai đoạn cuối THAAD. Bao nhiêu năm qua chính sách đối ngoại của Hàn Quốc
là dựa trên nền tảng liên minh quân sự Mỹ Hàn để bảo vệ chủ quyền và phát triển
đất nước. Mặc dù thương mại với Trung Quốc đã vượt Mỹ, nhưng họ tin Mỹ chứ
không tin Trung Quốc. Thực tế họ đã vươn lên trở thành một quốc gia công nghiệp
hiện đại, tiên tiến, thịnh vượng hàng đầu châu Á. Cũng như Nhật Bản, Không một
nhà quan sát quốc tế nào hoài nghi về chủ nghĩa dân tộc và bản sắc riêng của
dân tộc họ, trừ CHDCNN Triều Tiên.
Dân
tộc Triều Tiên là một trong những dân tộc có bản sắc. Sức mạnh của một dân tộc
thường được đánh giá qua bốn yếu tố. Một là chế độ chính trị xã hội. Hai là chủ
quyền quốc gia. Ba là cộng đồng dân tộc. Bốn là văn hóa dân tộc. Trong đó yếu tố
cộng đồng dân tộc và văn hóa dân tộc là nền tảng tạo nên bản sắc của một dân tộc.
Trên bước đường lịch sử, dân tộc Triều Tiên, cũng các dân tộc khác có con đường
đi riêng của mình. Họ không có tham vọng bành trướng lãnh thổ, không đi xâm lược
hoặc chinh phục các dân tộc khác.
Do
có vị trí địa chính trị rất quan trọng, giống như dân tộc Việt, họ luôn bị các
thế lực ngoại xâm dòm ngó và xâm lược. Tuy diễn tiến qua thời gian có lúc thăng
có lúc trầm, nhưng họ luôn giữ gìn được sự thống nhất đất nước. Ở mỗi khúc
quanh của lịch sử, người Triều Tiên đều thể hiện được bản lĩnh, trí tuệ, nghị lực
để vươn lên trong nhiều lĩnh vực. Tôi tin rằng với truyền thống dựng nước, giữ
nước kiên cường, với một nền văn hóa rực rỡ trên bốn ngàn ba trăm năm, người
Triều Tiên biết mình phải làm gì để xứng đáng với lịch sử của họ.