Năm
2005 Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên đã tuyên bố rằng mình sở hữu vũ khí hạt
nhân và hệ thống phóng tên lửa đạn đạo, thậm chí có cả một kho vũ khí hóa học
đáng kể. Mặc dù còn có nhiều người hoài nghi về trình độ công nghệ, hoặc cho rằng
nước này cố tình tự đạo diễn về khả năng của mình, thì cho đến ngày hôm nay thế
giới phải thừa nhận tuyên bố của Triều Tiên đã trở thành thực tế.
Tôi
bay sang sân bay Incheon, Seoul Hàn Quốc vào buổi tối ngày 16 tháng 4, 2016,
đúng một ngày sau vụ thử tên lửa đạn đạo tầm trung được cho là bay tới các căn
cứ của Mỹ ở Thái Bình Dương. Sự việc này càng làm cho tình hình trên bán đảo
Triều Tiên thêm căng thẳng. Rõ ràng chính sách “bên miệng hố chiến tranh” của
“hai phe” bắt đầu chạm tới giới hạn.
Cuộc
tập trận quân sự thường niên lớn nhất trong lịch sử giữa Mỹ và Hàn Quốc đang diễn
ra như tôi đã nói ở phần trước, lệnh trừng phạt khắt khe chưa từng có của cộng
đồng quốc tế đã được thực thi. Tuy nhiên Triều Tiên có chịu xuống thang hay
chưa, dường như câu trả lời vẫn là chưa. Triều Tiên liên tiếp đáp trả lệnh trừng
phạt của Hội đồng Bảo an bằng những hành động cứng rắn, không khoan nhượng,
ngoài việc nhiều lần phóng tên lửa tầm trung, tầm xa, họ còn tuyên bố khẩn
trương chuẩn bị cho lần thử nghiệm hạt nhân thứ năm, đồng thời tăng cường
nghiên cứu, phát triển đầu đạn hạt nhân thu nhỏ.
Nhiều
nhà quan sát quốc tế cho rằng thời điểm của cuộc tấn công của liên quân Mỹ-Hàn
cùng với đồng minh là Nhật có lẽ đã được quyết định trước khi Triều Tiên có thể
sở hữu đầu đạn hạt nhân và tên lửa tầm xa vươn tới Mỹ. Tôi cho rằng dẫu tình
hình nước sôi lửa bỏng như vậy nhưng vẫn chưa đến lúc xảy ra chiến tranh, bởi
vì nó chỉ trở thành thực tế khi cả Trung Quốc và Nga, hai nước có đường biên
chung với Triều Tiên đều đồng ý- hai ông lớn có vai trò gần như quyết định số
phận của Tiều Tiên.
Tôi
băn khoăn tự hỏi khi cả cộng đồng quốc tế dồn ép Triều tiên vào bước đường
cùng, liệu Triều Tiên có liều lĩnh phản ứng tự sát bằng một cuộc chiến tranh
thông thường, thậm chí một cuộc chiến tranh hạt nhân với Hàn Quốc, Nhật Bản và
có thể là cả Mỹ? Mọi người cứ thử hình dung xem, khủng bố đã làm được những điều
vượt xa sự tưởng tượng của con người ta thì Bình Nhưỡng tại sao lại không thể
làm được những điều mà chỉ có Trời mới biết được.
Chỉ
cần một hành động mạo hiểm, ngông cuồng, dân tộc chủ nghĩa cực đoan- điều mà
người ta từng thấy ở phát xít Đức và phát xít Nhật trước đây, giờ đây đang có
biểu hiện ở Triều Tiên và Trung Quốc, là có thể sẽ đẩy nhân loại đến bờ vực thảm
họa.
Chúng
ta hãy nghe cựu ngoại trưởng Mỹ Collin Powell phát biểu trong cuộc gặp gỡ báo
chí của đài NBC ngày 6 tháng 9, 2015 : “Tôi đã nói với người Triều Tiên cũng
như Iran trong nhiều dịp tiếp xúc rằng: Các anh biết rõ bất kì khi nào các anh
sử dụng chúng, các anh sẽ tự sát bởi đất nước và xã hội các anh sẽ sụp đổ vào
ngày hôm sau”. Ông nói tiếp: “Các anh có thể giết chết hàng chục ngàn người,
phá hủy một phần của một thành phố và ngày hôm sau các anh sẽ thấy hậu quả về
những gì mình đã làm”. Ông ta cho rằng việc cố gắng phát triển vũ khí hủy diệt
hàng loạt “sẽ là một sự lãng phí tiền của, thời gian. Thay thế vào đó, tôi nghĩ
những gì cần làm là nên hợp tác toàn diện”.
Tôi
tin phát biểu của Collin Powell sẽ là hành động đáp trả của Mỹ đối với Triều
Tiên nếu họ làm liều. Hai quả bom nguyên tử ném xuống Nhật Bản tháng Tám năm
1945 là một minh chứng. Cuộc chiến tranh do Mỹ và NATO phát động tấn công Cộng
hòa Liên bang Nam Tư, cuộc chiến tranh nhân danh liên minh chống khủng bố vào
các nước như Afgasnistan, Irac, Libi, hiện tại Xiri là một bằng chứng thuyết phục
nữa. Và gần đây nhất, Bộ tưởng Ngoại giao Mỹ John Kery thay mặt cho nước Mỹ đến
dự Lễ kỉ niệm về thảm họa bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hirosima và Nagaraki, mặc
dù người Nhật đã nhắc khéo về cái chết của hàng trăm nghìn người dân vô tội Nhật,
nhưng ông Kery không hề cậy răng xin lỗi
hay lấy làm tiếc về hành động trong quá khứ của nước Mỹ. Tại sao? Vì có thể là
ngày mai hay ngày kia đầu đạn hạt nhân của Mỹ sẽ phóng đến một nước nào đó, chẳng
hạn như là triều Tiên?
Iran
đã phải lùi bước trước áp lực của Mỹ và phương Tây. Vấn đề hạt nhân của Iran
coi như đã được giải quyết. Thế giới và khu vực thở phào nhẹ nhõm. Nhưng Triều
Tiên thì không. Khó khăn là ở chỗ Triều Tiên đã sở hữu vũ khí giết người hàng
loạt, không như trường hợp của Iran mới đang trên con đường tìm kiếm loại vũ
khí này. Chính vì vậy, Bộ Ngoại giao Triều Tiên hôm 21 tháng 7, 2015 ra thông
báo “không có hứng thú với bất kì cuộc đàm phán nào với Oashington về chương
trình hạt nhân” của nước này. Chương trình hạt nhân là sự răn đe cần thiết chống
lại chính sách của Mỹ. Sau khi thử thành công lần thứ tư, phía Triều Tiên gọi
là thử thành công bom nhiệt hạch, họ tuyên bố: “Chúng tôi là một thế lực hạt
nhân, và các thế lự hạt nhân đều có lợi ích riêng của họ”.
Cộng
đồng thế giới đã nhiều lần yêu cầu Triều Tiên từ bỏ vũ khí giết người hàng loạt,
ngay cả Trung Quốc và Nga, các ông lớn đã từng sử dụng Triều Tiên cho những mục
đích nước lớn của họ, cũng sốt sắng thật
sự đưa Triều tiên vào ngồi bàn đàn phán, và họ đã ép được Triều tiên ngồi vào
bàn đàm phán, nhưng Triều Tiên vẫn tỏ ra ương ngạnh. Họ đàm phán, rồi lại bỏ
đàm phán, việc đó lặp đi lặp lại nhiều lần, cho đến khi họ đạt được mục đích bất
chấp bao vây cấm vận. (Thì ra từ các nước lớn đến các nước nhỏ về vấn đề chính
trị họ đều là những diễn viên đầy thủ đoạn, tráo trở trước bàn cờ thế sự quốc tế
và trong nước).
Vậy thì nguyên nhân tại sao Triều Tiên lại cố
tình đi ngược lại với xu thế của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Chúng ta cần
nhớ rằng vào năm 1968 Triều Tiên cùng với hầu hết các quốc gia trên thế giới đã
kí Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, có nghĩa là họ có một thời kì dài
không có ý định hoặc không công khai có ý định sở hữu vũ khí giết người hàng loạt.
Chỉ đến năm 2003 Triều Tiên mới rút ra khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt
nhân, có nghĩa là sau năm 2003 họ mới có ý định và công khai ý định sở hữu vũ
khí giết người hàng loạt cho tới khi đạt được mục đích.
Chúng
ta hãy cùng lược lại hồ sơ về hạt nhân của Triều tiên để có một lời giải cho
bài toán về hạt nhân của nước này.
Theo
Wikipedia tiếng Việt, Triều Tiên đã có tham vọng ban đầu để có được vũ khí hạt
nhân là từ năm 1956. Tôi cho rằng nhận xét này không có đủ cơ sở. Phải đến năm
1964, khi Trung Quốc thử thành công bom nguyên tử và sau đó là bom nhiệt hạch
thì đó mới là một cú hích thật sự đối với Triều Tiên.
Dẫn
đầu phái đoàn Đảng và nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên lúc đó là
Kim Nhật Thành sang chúc mừng Đảng và Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng
thời bày tỏ nguyện vọng với Mao Trạch Đông muốn được người anh vĩ đại chia sẻ
công nghệ hạt nhân, nhưng Mao Trạch Đông đã thẳng thừng từ chối với lí do Triều
Tiên là một nước nhỏ, không cần thiết phải sở hữu loại vũ khí này.
Tất
nhiên không để mất lòng người em đầy tham vọng này, “người cầm lái vĩ đại” đã hứa
hẹn, cũng giống như họ đã hứa hẹn với người Việt, cứ trường kì mai phục, đánh Mỹ
cho đến người cuối cùng, đằng sau đã có 600 triệu người dân Trung Quốc và một đất
nước rộng lớn bao la lo liệu và hỗ trợ- bây giờ họ đã xấp xỉ một tỉ tư người với
một đất nước mà họ coi là quá chật hẹp cần phải bành trướng để mở rộng “không
gian sinh tồn”, như ý tưởng của Đức Quốc Xã trước chiến tranh thế giới thứ hai.
Với
tư tưởng Chủ thể của Kim Nhật Thành mà tôi đã đề cập trong bài viết trước, Kim
không từ bỏ ý định. Ông đã quay sang nhờ sự cậy sự giúp đỡ của Liên Xô (Liên
bang cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết trước đây, đã sụp đổ năm 1991, sau đó Cộng
hòa Liên bang Nga kế thừa). Tất nhiên, Liên Xô cũng chối từ. Để khỏi mất lòng
“đứa con do mình đẻ ra vào năm 1945”, Liên Xô đã giúp Triều Tiên xây dựng nền khoa học quốc phòng
và cơ sở nghiên cứu khoa học hạt nhân (cũng như đã từng giúp Trung Quốc trước
khi hai nước cơm chẳng ngọt, canh chẳng lành- nó là cơ sở cho sự phát triển của
Trung Quốc ngày nay. Nguyên nhân cũng chỉ vì Liên Xô không chịu đánh Mỹ cho đến
người cuối cùng, để họ Quan sơn tọa hổ đấu).
Liên
Xô giúp Triều Tiên xây dựng lò phản ứng nguyên tử ở Yongbyon, lò phản ứng này
hoạt động từ năm 1965 đến 1973 và đã cung cấp cho Triều tiên nguyên liệu làm
giàu urani 10%. Đây chính là cái cơ sở đầu tiên nuôi tham vọng của dòng họ Kim ở
xứ Cao Ly này.
Năm
1974, các chuyên gia Tiều Tiên đã tự thực hiện việc hiện đại hóa lò phản ứng, đồng
thời chuyển sang sử dụng nhiên liệu được làm giàu đến 80%. Năm 1979, năm mà Kim
Nhật Thành tuyên bố đã hoàn thành công nghiệp hóa, đỉnh cao phát triển của đất
nước Thiên Lí Mã, họ đã tự xây dựng lò phản ứng nguyên tử thứ hai cùng với một
nhà máy sản xuất các thanh nhiên liệu và chính thức chuyển sang thời kì phát
triển vũ khí hạt nhân.
Mặc
dầu vậy, con đường để chế tạo được một quả bom hạt nhân không phải là một chuyện
đơn giản. Nó không chỉ phụ thuộc vào ý chí, trình độ nghiên cứu lí thuyết,
trình độ công nghệ, việc ứng dụng thực hành mà còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố. Có lẽ Triều Tiên đã bế tắc ở một khâu nào đó, vì vậy công việc phát triển dậm
chân tại chỗ nhiều năm. Và vì vậy họ đã kí Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt
nhân để trở thành một quốc gia yêu chuộng hòa bình, cũng giống như đa số các nước
đang phát triển khác.
Tình
hình đã trở nên khác vào thập niên 1990 khi người Triều Tiên tiếp cận được với
công nghệ hạt nhân của Pakistan. Về vấn đề này còn có nhiều tranh cãi, bởi vì
không có một quốc gia nào chịu thừa nhận rằng nước mình đã làm những chuyện phi
pháp, vi phạm công pháp và tư pháp quốc tế. Tất cả đều tuân thủ luật pháp quốc
tế, tất cả đều hấn hảo lơ, very gút, Kha ra xô… Họ đều đổ lỗi cho các nước
khác. Đúng sai hậu xét. Chỉ biết rằng có việc mờ ám trong việc trao đổi công
nghệ tên lửa và công nghệ hạt nhân giữa hai nước và vì vậy năm 2003 Triều Tiên
đã rút khỏi Hiệp ước không phổ biến hạt nhân để đến năm 2005 Triều Tiên tự nhận
mình đã bước vào hàng ngũ các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân.
Ngày
8 tháng 10, 2006 Triều Tiên thử vũ khí hạt nhân lần thứ nhất.
Ngày
25 tháng 5, 2009 Triều Tiên thử vũ khí hạt nhân lần thứ hai.
Ngày
12 tháng 2, 2013 Triều Tiên thử vũ khí hạt nhân lần thứ ba.
Ngày
6 tháng 1, 2016 Triều Tiên thử vũ khí hạt nhân lần thứ tư.
Các
cơ quan Bắc Triều Tiên thông báo đã thử thành công lần thứ tư không phải là bom
nguyên tử mà là bom nhiệt hạch. Mặc dầu
một số chuyên gia nghi ngờ đó là một quả bom phân hạch, chứ không phải là bom
nhiệt hạch. Dù sao đi chăng nữa, sức mạnh của nó cũng lớn hơn bom hạt nhân.
Còn
về vấn đề tên lửa của Triều Tiên, người ta đã mệnh danh cho nước này là một “đại
gia” xuất khẩu loại vũ khí lợi hại này. Theo BBC, chương trình tên lửa Triều
Tiên có nền tảng kĩ thuật căn bản là tên lửa đạn đạo chiến thuật Scud do Liên
Xô chế tạo, cộng thêm sự hỗ trợ hợp tác với Trung Quốc nên họ đã đạt được trình
độ như ngày nay.
Từ
năm 1969, Bình Nhưỡng đã nhận được nhiều loại tên lửa chiến thuật của Liên Xô
nhưng đến năm 1976 mới sở hữu tên lửa Scud đầu tiên. Sau gần mười năm tự nghiên
cứu, Triều Tiên đã ra mắt phiên bản mới của Scud B của riêng mình, gọi là
Hwasong-5. Tầm bắn của tên lửa này lên tới 300km và có thể mang theo 1000 kg
thuốc nổ. Từ thành công này, Bình nhưỡng tiến tới phát triển Hwasong-6 với đầu
đạn khoảng 700 kg thuốc nổ và tầm bắn đạt đến 500 km. Đặc biệt là cả hai loại
này đều có thể mang theo đầu đạn hạt nhân, hóa học và sinh học.
Cũng
dựa vào nền tảng của Scud, Bình Nhưỡng đã cho phóng thử tên lửa tầm trung
Nodong vào thập niên 1990. Tầm bắn vượt xa các đời tên lửa Scud B, nhưng độ
chính xác không cao. Tiếp theo Bình Nhưỡng hai lần dùng tên lửa đưa vệ tinh vào
quỹ đạo trái đất và nhiều lần thử tên lửa đạn đạo. Vào tháng 4 năm 2016, Bình
nhưỡng tuyên bố họ đã chế tạo thành công động cơ tên lửa đạn đạo, có tầm bắn tới
10.000 km, có nghĩa là tên lửa bay tới được đất Mỹ. Như vậy là Triều Tiên không
những đã có một kho vũ khí tên lửa mạnh mẽ, thực tế đã xuất khẩu đi nhiều nước,
trong đó có cả Việt Nam, mà họ còn có một vị thế nhất định trong thị trường xuất
khẩu quốc tế.
Tất
nhiên không chỉ vì Triều Tiên đã nắm được công nghệ sản xuất vũ khí hạt nhân và
công nghệ tên lửa nên họ mới rút khỏi hiệp ước mà họ đã từng kí. Có nhiều bối cảnh
như tình hình trong nước, tình hình quốc tế, đặc biệt là tình hình Trung-Mỹ-Hàn-Triều
để lí giải việc làm của Triều Tiên.
Trước
hết phải nói đến Trung Quốc, người anh em môi hở răng lạnh của Triều Tiên. Vào
những năm 1970, Trung Quốc đã bắt đầu thay đổi chính sách đối ngoại. Họ đã “đi”
với kẻ thù không đội trời chung của họ là Mỹ để chống lại Liên Xô, Bình Nhưỡng
không thể không thất vọng về việc làm của người anh của mình. Triều Tiên không
còn là ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Viện trợ cho Triều
Tiên bắt đầu cắt giảm. Tiếp đến cái tư tưởng mèo đen hay là mèo trắng của Đặng
Tiểu Bình, kiến trúc sư của bốn hiện đại hóa của Trung Quốc, dựa vào Mỹ và
phương Tây để phát triển đất nước, tất cả đều không nhận được sự ủng hộ của Triều
Tiên. Họ không chuyển mình theo người anh “lạc lối”, vẫn quyết tâm không thay đổi
chế độ quan liêu bao cấp của chủ nghĩa xã hội, không công nhận nền kinh tế thị
trường, mặc dù kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn.
Trong
khoảng ba mươi năm phát triển, Trung Quốc đã tận dụng được thành quả của công
cuộc toàn cầu hóa, tức là nhờ tiền vốn, công nghệ, trình độ quản lí của tư bản
Mỹ và phương Tây, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội Trung Quốc để cất cánh. Tiềm lực
và vị thế của Trung Quốc và Triều Tiên đều đã thay đổi. Trung Quốc trở thành một
cường quốc lớn, còn Triều Tiên thì ngày càng tụt hậu. Người anh nối khố chỉ mải
mê quan hệ với những nước lớn, giàu có, kể cả kẻ thù của Triều Tiên là Hàn Quốc.
Triều Tiên hiểu rằng Trung Quốc có giúp đỡ, nhưng có chăng chỉ là bố thí ít của
nả để cầm hơi, thậm chí còn lợi dụng người em trong lúc khó khăn để khai thác,
để mua nguyên liệu rẻ, để bán hàng đắt theo phương thúc tư bản. Sự bất mãn cứ tích tụ dần từ thời Giang Trạch Dân
đến Hồ Cẩm Đào và bùng phát từ khi Tập Cận Bình lên nắm quyền Đảng và Nhà nước
Trung Quốc.
Tập
còn không thèm đến thăm Triều Tiên theo thông lệ khi trở thành người có quyền lực
nhất Trung Quốc. Ông ta muốn có quan hệ nước lớn với Mỹ, phục hưng dân tộc
Trung Hoa vĩ đại, đi thăm khắp hang cùng ngõ hẻm, giao hảo mặn nồng với Hàn Quốc
và bỏ qua Triều Tiên. Trong khi đó, người Triều Tiên thì coi Hàn Quốc chỉ là
“công cụ, là tay sai, là bù nhìn, là cái đuôi” của Đế quốc Mỹ- kẻ thù không đội
trời chung của họ. Có thể nói cảm nhận của Triều Tiên là hoàn toàn thất vọng và
bất mãn. Cái tâm trạng khó chịu đó của người Triều Tiên đã được Kim Jong Un
trút lên tất cả những người bao năm qua ngả theo Bắc Kinh. Cái chết của nhân vật
quyền lực thứ hai thân cận với Trung Quốc và là ông chú rể của Kim Jong Un cũng
không phải là ngoại lệ.
Theo
thông tin từ nhiều nguồn, Triều Tiên đã chính thức coi Trung Quốc là kẻ đồng
lõa với Đế quốc Mỹ trong việc ủng hộ Hội đồng bảo an trừng phạt Triều Tiên. Vậy
thì tại sao Triều Tiên lại phải tuân theo sự sắp xếp của Trung Quốc. Tại sao họ
lại phải trở thành con bài và vật hi sinh cho quyền lợi của Trung Quốc. Họ có
được nhờ vả gì từ công nghệ hạt nhân và công nghệ tên lửa của Trung Quốc đâu. Họ
biết không thể trông chờ được vào Trung Quốc. Bài học về Việt Nam và Trung Quốc
chắc họ luôn khắc cốt ghi tâm. Họ quyết tâm cố gắng có được cái thứ bảo bối quý
báu nhất của riêng mình- vũ khí hủy diệt hàng loạt để bảo vệ an ninh và chủ quyền
của quốc gia, trong đó có gia tộc họ Kim.
Tiếp
theo là nước Nga, người kế thừa Liên Xô trước đây. Có thể nói khi Liên bang Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết sụp đổ, Triều Tiên đã mất đi sự hỗ trợ đáng kể về
công nghệ quốc phòng, về kinh tế cũng như về thị trường. Hơn nữa, nước Nga hiện
tại là một nước tư bản. Dưới thời Tổng Thống Nga Gorbachev, Elsin, nước nga còn
trông chờ vào Mỹ và phương Tây; gần như họ không muốn quan hệ với Triều Tiên. Họ
chỉ quan hệ với Hàn Quốc và coi việc Hàn Quốc sáp nhập Triều Tiên chỉ là vấn đề
thời gian. Triều Tiên càng bị cô lập, chỉ còn biết trông chờ vào cái tư tưởng “Chủ
thể” và “Tiên quân” của chính mình.
Từ
khi Tổng thống Putin lên nắm quyền, quan hệ hai nước đã được cải thiện. Đặc biệt
sau khi nước Nga xóa 90% tổng số 11 tỉ đô la tiền nợ thời Liên Xô, 10% còn lại
đầu tư vào cơ sở hạ tầng Triều Tiên. Nước Nga thời Putin biết cân bằng quan hệ
giữa hai miền Triều tiên. Và quan trọng hơn, khi quan hệ giữa Nga với Mỹ và
phương Tây căng thẳng, nước Nga sẵn sàng giúp đỡ Triều Tiên đứng vững, duy trì
cục diện chia cắt hai miền như hiện nay. Thậm chí nếu có chiến tranh, nước Nga
có thể cùng với Trung Quốc không để người Mỹ áp sát biên giới của họ.
Trong
tương lai, nếu quan hệ giữa Nga và Phương Tây có chiều hướng phát triển tốt đẹp,
bán đảo Triều tiên có biến động, Bắc Triều tiên sụp đổ, một Cao Ly thống nhất,
với người Nga có khi còn là một kết cục tốt đẹp để cân bằng với một Trung Quốc
đang lên đầy tham vọng. Nếu kịch bản này xảy ra, dù sao họ cũng không bị áp lực
như đối với Trung Quốc. Vì đường biên của họ với Triều Tiên chỉ có 195 km,
trong khi đó đường biên của Trung Quốc với Triều Tiên là hơn 1.300 km. Hơn nữa
trong lịch sử, quan hệ của Nga với hai miền Triều Tiên không ân oán phức tạp
như quan hệ giữa người Triều Tiên với người Trung Quốc.
Cũng
như Trung Quốc, lập trường của Nga là phi hạt nhân bán đảo Triều Tiên. Vậy thì
Triều Tiên cũng không thể trông mong vào nước Nga. Nhưng với họ, dù sao thì người
Nga cũng đòi Mỹ và Trung Quốc phải đưa bản Nghị quyết trừng phạt Triều Tiên cho
họ xem xét lại trước khi thông qua, coi như lời nhắc nhở khéo về vị thế của Nga
ở bán đảo Triều Tiên, với danh nghĩa là không để người dân Triều Tiên trở thành
nạn nhân của các biện pháp cấm vận, trừng phạt.
Nhìn
ra xa bên ngoài, người Triều Tiên đã thấy bài học nhãn tiền của những nước
không kiên trì theo con đường phát triển vũ khí hàng loạt hoặc từ bỏ loại vũ
khí này như Irắc, Libi, Ucraina… Các quốc
gia này đều bị các thế lực lớn hủy diệt, tàn phá, xâu xé. Các nguyên thủ quốc
gia người bị treo cổ, người bị bắn chết, người thì bỏ trốn. Kết cục với đa số
người trong bộ máy chính quyền của các nước này thật cay đắng.
Đối
diện với sự tồn vong của chế độ xã hội và bộ máy chính quyền Triều Tiên và là
nguyên nhân quan trọng nhất, chính là chính sách và hành động của liên minh Mỹ-Hàn.
Người triều tiên cho rằng nếu không có sự can thiệp của Mỹ thì họ đã có được một
đất nước thống nhất ngay từ đầu những năm 50 của thế kỉ trước. Vì vậy mối thâm
thù với Mỹ cứ chồng chất theo thời gian hơn sáu mươi năm qua. Triều Tiên trường
kì mai phục nhưng trước một liên minh Mỹ-Hàn lớn mạnh theo năm tháng họ đành bất
lực và còn có nguy cơ “mất nước” bởi sức mạnh vũ lực và sức mạnh mềm kinh tế,
văn hóa cùng với thủ đoạn diễn biến hòa bình, hay cách mạng mầu. Người Triều
tiên cho rằng con đường để tồn tại duy nhất của họ là phát triển vũ khí giết
người hàng loạt để đảm bảo chủ quyền và an ninh cho họ. Điều đó không có gì là
khó hiểu.
Triều
Tiên đã thay đổi chiến lược quân sự, nhưng sự thay đổi diễn ra không liên tục,
vừa tạo ra tình trạng ổn định vừa tạo ra tình trạng không ổn định. Và Mỹ-Hàn
cũng vậy, họ cũng áp dụng một chiến lược không có chiến tranh và cũng không có
hòa bình, tổ chức các cuộc tập trận thường niên áp đảo để răn đe với những mục
tiêu cụ thể, rõ ràng, vừa đủ để kiềm chế cả hai bên. Hàn Quốc bắt đầu từ bỏ
chính sách đối thoại, hợp tác phát triển kinh tế, bắt đầu từ bỏ chính sách xây
dựng lòng tin đối với Triều Tiên nhằm ngăn chặn nguy cơ hạt nhân và thúc đẩy
hòa bình ổn định trên bán đảo, tăng cường gây áp lực lên Bình Nhưỡng.
Quyết
tâm của Triều Tiên theo đuổi chương trình phát triển vũ khí giết người hàng loạt
đã gặt hái được thành công trong khoảng hơn một chục năm trở lại đây. Triều
Tiên tin rằng chiến lược của họ sẽ tạo ra sự răn đe nhất định đối với Mỹ và
đương nhiên gây áp lực, thậm chí thách thức Hàn Quốc và Nhật Bản. Triều Tiên dồn
25 % ngân sách cho quốc phòng, tăng cường các cuộc tấn công khiêu khích thông
thường bằng việc đánh chìm tàu ngầm của Hàn Quốc, nã pháo ở khu phi quân sự,
liên tục thử các loại tên lửa, vũ khí hạt nhân, ráo riết thu gọn đầu đạn hạt nhân
vào tên lửa… Tất cả đều tạo ra một sức ép và sự răn đe nhằm tiến tới một hiệp ước
hòa bình để bảo vệ an ninh của họ.
Đáp
lại, Mỹ-Hàn xây dựng chiến lược chung về nguy cơ xảy ra một cuộc chiến về hạt
nhân. Về mặt tác chiến, họ đã thống nhất kế hoạch chống khiêu khích đối với các
cuộc tấn công thông thường và kế hoạch răn đe có mục tiêu đối với các mối đe dọa
hạt nhân của Triều Tiên (thể hiện rõ nhất trong cuộc tập trận đang diễn ra mà
tôi đã trình bày ở phần trước). Cụ thể họ đã triển khai hệ thống phòng thủ tên
lửa các loại kể cả hệ thống phòng thủ tầm cao giai đoạn cuối THAAD, phát triển
năng lực thực hiện các đòn tấn công phủ đầu các lực lượng hạt nhân theo các mức
độ.
Theo
tôi bán đảo Triều Tiên thật sự bên bờ vực của một cuộc chiến tranh, thật sự hết
sức nguy hiểm. Cán cân rõ ràng đang nghiêng về liên minh Mỹ-Hàn. Họ có được áp
lực của cả Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc với lệnh trừng phạt cao nhất, họ có kế
hoạch tự bảo vệ mình trong khi vẫn tìm kiếm một giải pháp ngoại giao buộc Triều
Tiên phải từ bỏ chương trình phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt. Họ đã chuẩn
bị chu đáo cho một cuộc tấn công thông thường chống lại lực lượng hạt nhân của
Triều Tiên. Họ đã lựa chọn một cuộc tấn công có giới hạn để đạt được mục tiêu của
họ.
Tôi
tin rằng người Mỹ có đủ kinh nghiệm để quản lí sự leo thang trong cuộc khủng hoảng
ở bán đảo Triều Tiên. Có lẽ họ không cần sử dụng đến lực lượng hạt nhân chiến
thuật. Nhưng nếu người Triều Tiên muốn có một cuộc tấn công tự sát bằng vũ khí
hạt nhân, thì đúng như ông Collin Powell đã nói, một thảm họa ghê gớm sẽ xảy
ra, kể cả Trung Quốc và Liên Xô cũng không ngăn cản nổi. Chỉ có người dân hai
miền là nạn nhân phải gánh chịu trong cuộc xung đột này. Riêng cá nhân tôi thấy
lo lo, sau ba tháng nữa về, phải qua sân bay quốc tế Incheon, seoul tôi không
biết chiến tranh có nổ ra hay không. Chẳng lẽ thế giới này chỉ có người chết mới
chứng kiến nhân loại hết chiến tranh? Tôi lại chợt nghĩ tới lời nhà vật lí nổi
tiếng nhất thế giới hiện nay “có lẽ những sinh vật sống văn minh trong vũ trụ
đã bảo nhau tránh xa cái địa cầu hiếu chiến này”.
Dẫu
sao thì tôi vẫn hy vọng rằng vấn đề hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên sẽ có một giải
pháp hòa bình.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét