Hội
nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á, còn gọi là Đối thoại thoại Shangri-la, là một
diễn đàn an ninh liên chính phủ được tổ chức hàng năm bởi một tổ chức cố vấn độc
lập- Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế và Chính phủ Singapore phối hợp tổ chức.
Đối
thoại Shangri-la (tên khách sạn nơi tổ chức đối thoại) lần đầu tổ chức vào năm
2002, thu hút 161 đại biểu từ 22 quốc gia. Diễn đàn năm nay là lần thứ 15, thu
hút 602 đại biểu từ 35 quốc gia, trong đó có 30 lãnh đạo quốc phòng cùng hơn
2000 nhân viên hỗ trợ.
Đối
thoại là nơi các quốc gia trao đổi những vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan
tâm, là nơi nuôi dưỡng ý thức cộng đồng trong hoạch định chính sách quan trọng
về quốc phòng và an ninh trong khu vực. Cũng nhân dịp này các đoàn đại biểu đã
tận dụng thời gian gặp gỡ song phương để trao đổi những vấn đề cùng quan tâm. Diễn đàn còn có sự tham gia của những nhà lập
pháp, chuyên gia khoa học, nghiên cứu, các nhà báo.
Chủ
đề chính tại Đối thoại Shangri-la năm nay gồm có 3 vấn đề:
Thứ
nhất là khủng hoảng hạt nhân Bắc Triều Tiên.
Thứ
hai là căng thẳng Biển Đông.
Thứ
ba là an ninh liên quan đến di dân, an ninh mạng, chống khủng bố và hợp tác quốc
phòng.
Theo
các nhà quan sát trong và ngoài nước, mặc dù chủ đề của Đối thoại Shangri-la
năm nay có ba vấn đề như trên nhưng bao trùm và thu hút sự chú ý chung thì có bốn
điểm. Đó là: 1, Biển Đông thống trị diễn đàn. 2, Từ “nguyên tắc” được nhiều quốc
gia nhắc đến nhiều nhất, riêng Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton Carter trong bài
phát biểu của mình đã nhắc đến từ này đến 24 lần. 3, Trung Quốc là quốc gia bị
hầu hết các nước và các nhà báo bủa vây, chỉ trích về lập trường bành trướng ở
Biển Đông. 4, Mâu thuẫn Mỹ-Trung đặc biệt căng thẳng.
Theo
ý kiến cá nhân tôi, cả bốn điểm nhấn trên tựu trung lại chỉ xoay quanh một vấn
đề Biển Đông mà tác nhân gây ra căng thẳng chính là sự bành trướng của Trung Quốc.
Trong đó có việc Trung Quốc đã đánh chiếm các đảo; cố tình áp dụng, diễn giải
sai Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển UNCLOS năm 1982; vi phạm chủ quyền, quyền
chủ quyền, quyền tài phán, vùng đặc quyền kinh tế, những lợi ích hợp pháp của Việt
Nam và nhiều quốc gia ASEAN. Trung Quốc cải tạo các thực thể đá, quân sự hóa
các thực thể đó trở thành các căn cứ quân sự nhằm hiện thực hóa đường chín đoạn
(đường lưỡi bò), đe dọa hòa bình ổn định của khu vực, đe dọa tự do hàng hải, hàng
không theo luật pháp quốc tế.
Tôi
đã đề cập đến âm mưu và thủ đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông ở một số bài viết
trong Blog này nên không nhắc lại vấn đề này, và chủ đề bài viết là Shangri-la
15 nên tôi không muốn để sa đà vào việc
thuật lại những âm mưu và hành động của Trung Quốc ở Biển Đông trong những năm
qua. kết luận lại là thủ phạm làm leo thang căng thẳng ở Biển Đông từ trước đến
nay là chủ nghĩa dân tộc Đại Hán mà Bắc Kinh đang theo đuổi, thể hiện thông qua
đường chín đoạn. Shangri-la năm nay lại nằm trong bối cảnh Tòa Trọng tài Liên Hợp
Quốc sắp ra phán quyết; nếu phán quyết
các thực thể mà Trung Quốc đã đánh chiếm không có lãnh hải và vùng đặc quyền
kinh tế, hoặc có lãnh hải nhưng không có vùng đặc quyền kinh tế thì sẽ đập tan
cơ sở pháp lí đối với yêu sách bên trong đường chín đoạn. Chính vì thế
Shangri-la năm nay không phải là vấn đề của riêng ai.
Xưa
nay Bắc Kinh chỉ muốn giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông qua đàm phán song
phương để dễ bề lấn lướt, ép các nước, nhưng cho đến bây giờ điều này đã hoàn
toàn vượt tầm kiểm soát, tính toán của họ. Vấn đề Biển Đông đã hoàn toàn quốc tế
hóa, đó là sự thật không thể đảo ngược. Trong Tuyên bố chung của G7 mở rộng, tình
hình Biển Đông đã được đề cập với sự quan ngại sâu sắc về lập trường bành trướng
của Bắc Kinh. Tòa án Trọng tài Thường trực Liên Hợp Quốc (PCA) ở Hà Lan sắp ra
phán quyết về vụ Philippines kiện Trung Quốc về đường chín đoạn vào đầu tháng Bẩy.
Tuyên bố chung của Hội nghị đặc biệt các ngoại trưởng ASEAN tại Vân Nam bị
Trung Quốc ép không được công bố bất chấp danh dự và quy tắc ngoại giao nước chủ
nhà.
Có
lẽ qua Đối thoại Shangri-la cộng đồng quốc tế và ASEAN đã “bày tỏ sự quan ngại
sâu sắc về những diễn biến phức tạp gần đây và đang diễn ra ở Biển Đông, nhất
là việc bồi đắp, tôn tạo và xây dựng quy mô lớn các bãi đá, quân sự hóa các đảo
nhân tạo và các hành động khẳng định chủ quyền không dựa trên luật pháp quốc tế”.
Trước tình hình phức tạp, các bộ trưởng đã “đề nghị ASEAN và Trung Quốc thể hiện
quyết tâm chính trị và nỗ lực hơn nữa để đảm bảo hòa bình và an ninh ở Biển
Đông, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế”… Mặc dù còn có những
khác biệt, nhưng ASEAN đã tỏ ra đoàn kết và không nhượng bộ trước thái độ chiếu
trên của Trung Quốc.
Về
phía Việt Nam, tôi nghĩ có lẽ đây là Shangri-la đầu tiên Việt Nam đã thể hiện lập
trường cứng rắn của mình về Biển Đông. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh trưởng đoàn
tham dự Shangri-la tuyên bố tình hình Biển Đông “càng căng thẳng phức tạp việt
Nam càng phải quyết tâm giữ vững độc lập, chủ quyền”. Tướng Vịnh khẳng định Việt
Nam kiên trì cuộc đấu tranh với Trung quốc đồng thời cũng nhấn mạnh tinh thần hợp
tác với Trung quốc, đấu trang và hợp tác cũng như hợp tác và đấu tranh để bảo vệ
nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển
năn 1982. Cũng tại đối thoại này, trước những câu hỏi của báo chí về việc Mỹ dỡ
bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, một lần nữa Tướng Vịnh khẳng định
đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Và tuyên
bố Việt Nam sẽ không liên minh với một nước nào để chống lại nước thứ ba.
Điều
đặc biệt trong Đối thoai Shangri-la 15, lần đầu tiên một số nước phương Tây,
trong đó có Bộ trưởng quốc phòng Anh, Pháp, Canada có những tuyên bố mạnh mẽ sẽ
tham gia tuần tra ở Biển Đông và kêu gọi Liên minh châu Âu tham dự tuần tra
chung với Mỹ ở Biển Đông. Bộ trưởng Quốc phòng Anh Michael Fallon và người đồng
cấp Pháp Jean Yves Le Drian đã nói châu Âu có lợi ích chính trị tại khu vực
châu Á-Thái Bình Dương, họ quan tâm tới luật pháp quốc tế và tự do hàng hải.
Người
Anh nhắc tới thỏa thuận phòng thủ 5 bên gồm Anh, Úc, New Zealand, Malaisia,
Singapore cùng với căn cứ ở Brunei. Người Pháp nhắc tới các đảo của mình nằm giữa
Thái Bình Dương và các đảo trên Ấn Độ Dương. Cả hai bộ trưởng quốc phòng Anh,
Pháp đều khẳng định kế hoạch tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Á-Thái Bình
Dương. Bộ trưởng Quốc phòng Pháp còn kêu gọi sự hiện diện “thường xuyên và rõ
ràng” tại khu vực. Ông nói: “Nếu chúng ta muốn kiềm chế nguy cơ xung đột, chúng
ta phải bảo vệ các nguyên tắc”. Theo ông “Nếu luật biển không được tôn trọng tại
các biển gần Trung Quốc thì sau này nó sẽ bị đe dọa ở Bắc Cực, Địa Trung Hải
hay ở nơi khác. Rõ ràng xu hướng đấu tranh đòi Trung Quốc tôn trọng luật pháp
quốc tế và các nguyên tắc, chuẩn mực chung đang trở thành một xu thế và trở
thành vấn đề quốc tế, không phải là vấn đề riêng của Bắc Kinh với các nước có
tranh chấp chủ quyền, bất chấp mọi âm mưu thủ đoạn tinh vi và trắng trợn của Bắc
kinh nhằm biến Biển Đông thành ao nhà của mình.
Tính
quốc tế nằm ngay ở bản chất đường chín đoạn phi lí và phi pháp do Trung Quốc tự
vẽ ra đè lên chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia ven
Biển Đông nhằm độc chiếm Biển Đông, kiểm soát một trong những tuyến đường giao
thông quan trọng nhất của thế giới. Do vậy nó có liên quan đến năm nước sáu
bên. Do vậy ASEAN ngày càng nhận rõ vai trò của mình, không vì một vài quốc gia
bị ảnh hưởng bởi Trung Quốc mà né tránh vấn đề. Cũng do vậy cộng đồng quốc tế
ngày một quan tâm. Các nước lớn ngày càng can thiệp sâu hơn tới khu vực, thậm
chí tình hình Biển Đông có nguy cơ vượt khỏi tầm tay vai trò trung tâm của
ASEAN nếu tổ chức này không có được tiếng nói thống nhất với Trung Quốc.
So
với các Shangri-la trước, người ta nhận thấy giọng điệu của đoàn Trung quốc tỏ
ra mềm mỏng một cách bất thường. Tôi cho rằng họ nghĩ mình đã đạt được một số mục
tiêu trên thực địa, nên cố nhẫn nhục tỏ ra mình là nạn nhân “chịu đòn”. Đô đốc Tôn
Kiến Quốc, đại diện cho Trung Quốc cố gắng giải thích việc làm của họ ở trên Biển
Đông là “chính đáng, hợp pháp và hợp lí”. Trung quốc không có dấu hiệu thỏa hiệp
nào. Họ phủ nhận những chỉ trích của các nước và cho rằng họ không có vấn đề gì
ở Biển Đông. Họ đổ vấy cho Mỹ mới là tác nhân xúi giục và quân sự hóa Biển
Đông. Họ ngang ngược tuyên bố Trung Quốc “không gây rối và cũng không sợ ai gây
rối”. Họ tỏ rõ việc không tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, đặc biệt
là không chấp nhận phán quyết do Tòa Trọng tài Thường trực sắp đưa ra và công
khai ý đồ thiết lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên Biển Đông nếu nhận
thấy “các mối đe dọa đi quá giới hạn”.
Như
vậy là không chỉ có Mỹ và các nước đồng minh sẽ phải tính toán những biện pháp
phản ứng phù hợp với những hành động phiêu lưu của Trung Quốc sau phán quyết của
Tòa án Trọng tài Thường trực Liên Hợp Quốc sắp tới, mà tất cả các thành viên
ASEAN, đặc biệt là Việt Nam phải chuẩn bị những cách thức đối phó với nguy cơ của
chủ nghĩa bành trướng quân phiệt. Tôi tin rằng trong thời gian ngắc hạn, Bắc
kinh chưa thay đổi lập trường và cách hành xử thô bạo, xô vanh nước lớn. Quan
điểm của họ ở Shanri-la là một minh chứng cho việc họ sẵn sàng đối đầu với khu
vực và quốc tế trong vấn đề Biển Đông.
Nếu
như Biển Đông là đề tài bao trùm lên Shangri-la 15 thì mâu thuẫn Mỹ Trung trở
thành một tâm điểm. Ngày 4 tháng 6 Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã có
bài phát biểu dài hơn hai mươi phút khai mạc phiên thảo luận “Đối phó với các
thách thức an ninh phức tạp của châu Á”. Ông Carter tiếp tục cam kết có mặt tại
khu vực châu Á-Thái Bình Dương và nhấn mạnh tầm quan trọng của một trật tự khu
vực dựa trên luật pháp quốc tế, liên quan đến các tranh chấp ở Biển Đông. Ông
cho rằng những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông đang “xây dựng bức trường
thành tự cô lập” trước khu vực đang hợp tác và gắn kết với nhau.
Cũng
trong bài phát biểu, Bộ Trưởng Quốc phòng Mỹ nhấn mạnh Mỹ tiếp tục bay, di chuyển
và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà luật pháp quốc tế cho phép, trong đó có Biển
Đông. Ông cũng kêu gọi các nước trong và ngoài khu vực có thể làm theo cách thức
Mỹ đã và đang làm. Ông cho rằng “chỉ khi tất cả mọi người đều cùng tuân thủ một
nguyên tắc, chúng ta mới có thể tránh các sai lầm của quá khứ giống như khi các
quốc gia thách thức lẫn nhau bằng sức mạnh và ý chí, gây ra những hậu quả tàn
khốc cho khu vực trước đây”. Ông Carter muốn ám chỉ các cuộc chiến tranh lớn
trước đây ở khu vực đều có “bàn tay” của Bắc Kinh. Trung Quốc cần phải thận trọng
và kiềm chế.
Đặc
biệt trong bài phát biểu của mình, ông Carter tuyên bố Mỹ đang xây dựng một mạng
lưới an ninh tập thể (collective security network) mới, dựa trên những nguyên tắc
và chuẩn mực chung. Đây chính là một nét đáng chú ý nhất trong toàn bộ bài phát
biểu, một vấn đề cực kì quan trọng vì bản chất của mạng lưới này là An ninh Tập
thể. Nó có thể ảnh hưởng sâu rộng đến môi trường ổn định của khu vực. Nó đặt ra
một cách thức tiếp cận mới cho các nước trong khu vực trong đó có Việt Nam, tiếp
cận với một xu hướng mới trong việc bảo vệ đất nước?
Theo
những điều tôi hiểu trong bài phát biểu thì mạng lưới an ninh tập thể mới, dựa
trên những nguyên tắc và chuẩn mực chung được Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đưa ra
ngày 4 tháng 6 tại Shangri-la 15 là một khái niệm bao quát mà nội dung cơ bản
là mạng lưới an ninh tập thể của châu Á, không giống như NATO của châu Âu, nó
là một tập hợp những cơ chế song phương, ba bên, đa phương trong khu vực tập
trung vào việc giữ gìn những giá trị cốt lõi và thúc đẩy chia sẻ các cơ sở hậu
cần, chia sẻ gánh nặng giữa các quốc gia tham gia.
Thực
ra khái niệm mạng lưới an ninh mới đã được chính Bộ trưởng Carter đề cập đến ở
Shangri-la năm trước. Tuy nhiên các nước và giới quan sát không quan tâm nhiều
đến nó vì từ trước đến nay, các nước châu Á không có truyền thống hình thành hệ
thống an ninh tập thể như kiểu của châu Âu. Họ quen thuộc với các hiệp ước song
phương theo kiểu Mỹ-Nhật, Mỹ-Hàn, Mỹ-Philippines. Nhưng chính tình hình xung đột
ở châu Á, đặc biệt là tình hình căng thẳng ở Biển Đông cùng với tầm nhìn rõ
ràng mang tính tích cực, tính định hướng cho tương lai mà ông Carter đã nêu ra
trong Shangri-la lần này được dư luận các nước đặc biệt quan tâm và chú ý. Hơn
nữa các nước nằm trong khối ASEAN tiềm lực kinh tế và quốc phòng đều rất dễ bị
tổn thương trước một Trung Quốc đầy tham vọng. Họ đã, đang và sẽ là mục tiêu bị
gặm nhấm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và những lợi ích kinh tế
chính đáng. Họ không thể không suy nghĩ theo hướng tiếp cận mà Mỹ đã khởi xướng.
Họ tin Mỹ chứ không tin Trung Quốc.
Khái
niệm mạng lưới an ninh tập thể mới là sự kết hợp giữa các nguyên tắc cốt lõi mà
Mỹ tin rằng sẽ đoàn kết các nước trong khu vực. Đó là chủ quyền, quyền tự quyết,
giải quyết hòa bình các tranh chấp, tự do hàng hải, hàng không… Mạng lưới này sẽ
tạo ra triển vọng các quốc gia phối hợp cùng với nhau có hiệu quả hơn trước các
thách thức truyền thống và phi truyền thống. Khả năng này thể hiện việc Mỹ ủng
hộ các quốc gia cũng như cách nhìn nhận về sự phát triển của châu Á-Thái Bình
Dương. Trong đó các quốc gia sẽ thể hiện vai trò lớn hơn trong khu vực, đồng thời
xây dựng các mối quan hệ để giải quyết các thách thức.
Theo
tôi, trên thực tế Mỹ đã xây dựng mạng lưới an ninh này từ trước đây, đặc biệt
là từ năm 2012 trở lại đây gắn liền với việc xoay trục về châu Á nhằm thúc đẩy
việc chia sẻ gánh nặng an ninh của Mỹ cùng với các nước đồng minh và các đối
tác. Từ sáng kiến liên kết Mỹ-Nhật-Ấn, Mỹ-Nhật-Úc cho đến sự phối hợp ba bên Mỹ-Thái-Lào,
Mỹ đang cố gắng xây dựng mạng lưới bao gồm các biện pháp được tiến hành bởi các
quốc gia trong khu vực như Úc-Ấn-Nhật hay các sáng kiến đa phương như Hội nghị
Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)… Như vậy là Mỹ sẽ duy trì an ninh
qua việc giữ gìn môi trường ổn định châu Á-Thái Bình Dương bằng chính sức mạnh
vượt trội của mình và thông qua hợp tác với các đồng minh truyền thống, thông
qua các đối tác trong khu vực.
Mạng
lưới an ninh tập thể mới, dựa trên các nguyên tác và chuẩn mực chung của Mỹ nêu
ra trong Đối thoại Shangri-la 15 có thể đem lại hòa bình hay không, theo tôi vẫn
còn là một ẩn số. Suy cho cùng đó là một dạng tập hợp lực lượng của Mỹ, sự đa dạng
hóa cách thức duy trì an ninh khu vực ở châu Á- Thái Bình Dương nói chung và ở
Biển Đông nói riêng, nhằm kiềm chế Trung Quốc. Vì vậy cảnh báo của Bộ trưởng Quốc
phòng Carter Trung Quốc đang dựng lên một bức tường tự cô lập không phải là
không có cơ sở. Và việc Việt Nam chúng ta
tính đến, có nên tham gia vào mạng lưới an ninh tập thể do Mỹ đứng đầu,
hoăc tham gia với một hình thức như thế nào đó để bảo vệ chủ quyền đất nước có
lẽ cũng không phải là không có cơ sở.
Đối
thoại Shangri-la đã khép lại, các nhà nghiên cứu và bình luận trong và ngoài nước
còn có những đánh giá trái chiều như các nước trong đó có việc Việt Nam đã bỏ lỡ
cơ hội đối thoại và tranh luận về cách diễn giải UNCLOS, làm sáng tỏ những hành
vi leo thang quân sự hóa của Trung Quốc ở Biển Đông và việc bảo vệ pháp luật quốc
tế, bảo vệ UNCLOS và phán quyết của Tòa Trọng tài Liên Hợp Quốc sắp tới… Tôi
cho rằng các ý kiến trái chiều đó đều đúng, nhưng thời gian quy định dành cho
các nước là có hạn. Vả lại chủ đề Shangri-la đâu chỉ có xoay quanh chuyện về Biển
Đông. Tôi tin rằng sau Shangri-la và tiếp theo là sau phán quyết của Tòa Trọng
tài trong tháng Bẩy, các nước trong đó có Việt Nam sẽ có những bước đi thích hợp,
tiếp tục đấu tranh lên án việc cải tạo và việc quân sự hóa các thực thể; đặc biệt
là việc bác bỏ yêu sách chủ quyền lịch sử phi lí về đường chín đoạn để bảo vệ
chủ quyền, quyền chủ quyền, những lợi ích hợp pháp của mình cũng như bảo vệ,
hòa bình, ổn định khu vực và luật pháp quốc tế.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét