Cảm nhận về tác phẩm Khát vọng và lẽ sống của tác giả
Nguyễn Tự Lập
Vào đúng ngày
kỷ niệm thành lập Trung đoàn 3 Sư 324, anh Nguyễn Tự Lập tặng tôi tập ký, tản
văn ‘Khát vọng và lẽ sống” do Nhà Xuất bản Hội nhà văn phát hành. Tôi rất vui
chúc mừng tác phẩm văn xuôi mới của anh; vui mừng và thật khâm phục đồng đội
ngoài 70, sau khi rời quân ngũ đã xuất bản tới 7 tác phẩm thơ và phê bình tiểu
luận với hơn một chục giải thưởng từ trung ương tới địa phương. Hiện tại anh lại
“dấn thân” vào lĩnh vực văn xuôi. Đúng là khí chất tài hoa của người Kinh Bắc
và bản lĩnh, phẩm chất tuyệt vời của người lính cụ Hồ, của một sĩ quan quân đội.
Tập Khát vọng
và lẽ sống gồm 39 bài viết xoay quanh chủ đề khát vọng, niềm tin, lẽ sống của
những con người “hôm qua”, “hôm nay” ở quê hương Kinh Bắc, cái nôi văn hóa Việt
thân yêu, giàu đẹp. Với lối hành văn khúc chiết, trong sáng, trữ tình, dù viết
về đề tài vĩ nhân, lãnh tụ hay đề tài về đồng chí, đồng đội hoặc người thực việc
thực, anh Nguyễn Tự Lập đều khắc họa được hình tượng, phẩm chất những nhân vật
mang trong mình lý tưởng sống, hành động của dân tộc và thời đại với khát vọng,
niềm tin, lẽ sống cao đẹp của chính anh.
Người ta nói
kí là thể loại đi chênh vênh giữa thơ và truyện. Đọc tác phẩm Khát vọng và lẽ sống
tôi thấy đúng như vậy. Nhiều bài viết tác giả tự sự, trần thuật về những con
người mình đã gặp gỡ, đã sống, chiến đấu và làm việc với những chi tiết chọn lọc,
tiêu biểu; phản ánh trung thực hiện thực cuộc sống sinh động, hào hùng của quê
hương, dân tộc với tình cảm kính phục, tự hào, giầu cảm xúc. Đó là cảm nghĩ sâu lắng về Bác Hồ, về người anh cả
của Quân đội Nhân dân Việt Nam Võ Nguyên Giáp, về Trung đoàn trưởng Hồ Hữu Lạn,
về họa sĩ thương binh Lê Duy Ứng, về anh Bùi Quang Thận, Phạm Xuân Thệ, về liệt
sĩ Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ, người đã hy sinh trên tháp pháo trước giờ toàn
thắng của dân tộc … Tất cả đều mang đậm chất thơ và tình cảm tha thiết của người
viết.
Ngoài những
bài viết tái hiện một đoạn lịch sử đã qua của dân tộc, anh Lập có một số bài viết
đề cập về quê hương, về truyền thống văn hiến, khoa bảng và về phong tục tập quán
đẹp. Đó là những bài như Bắc Ninh- Kinh Bắc, miền đất văn hiến, Làng Tam Sơn- một
miền đất địa linh nhân kiệt, Rước và đốt pháo- một nét đẹp trong lễ hội và truyền
thống ở Đồng Kỵ… Những bài viết trên tác giả chú ý miêu tả đời sống văn hóa của
các làng quê thuộc vùng Kinh Bắc qua các thời kỳ; những bài viết này mang âm hưởng
trữ tình, gợi cho người đọc nhận thức thêm về một miền quê giàu truyền thống,
nơi phát tích của nhà Lý, nơi sản sinh ra những nhà khoa bảng, những làn điệu
dân ca quan họ nổi tiếng… Miền quê đó đang hàng ngày thay da đổi thịt, đang đứng
“Trước ngưỡng cửa về thành phố thông minh”. Tôi cảm thấy rất tâm đắc và thú vị.
Một số bài viết của anh nghiêng về tính báo chí, có
tính chính luận, mang tính thời sự. Bên cạnh đó, còn có những bài viết mang đậm
tính chất tư liệu, hướng vào việc tái hiện chính xác những sự kiện, con người với
những chi tiết thực tế mà tác giả đã gặp gỡ, phỏng vấn và trải nghiệm. Ngoài yếu
tố trữ tình, không ít những bài viết còn
mang tính chính luận cao, theo khuynh hướng riêng của tác giả, toát ra từ những
tình thế và những hành động của nhân vật.
Tuy mang tính ghi chép về những sự kiện, phong trào,
về những đơn vị, tập thể nhưng những bài viết của anh lại rất hấp dẫn, lôi cuốn
người đọc đến không thể rời ra bởi chất chính luận, bởi tư duy sắc sảo, chuyên
sâu và khái quát của một người lính dày dạn trận mạc, một sĩ quan tham mưu chiến
lược. Những bài viết như Chiến thắng Thượng Đức- một mốc son lịch sử, Ấn tượng
sâu sắc về một đơn vị anh hùng, Cuộc tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Chiến
thắng lịch sử A Bia… đều mang dậm dấu ấn của tác giả. Những bài viết trên giống
như chất men say của lý luận, của kinh nghiệm, của lý trí; chất men hùng tráng
mang hơi hướng sử thi. Có thể nói mỗi bài viết là một bức tranh tổng thể trong
một hoàn cảnh đặc biệt mà sự việc và con người trong bài viết đan chéo nhau,
khiến cho tôi và những người đoc, nhất là người đọc ít nhiều ở trong cuộc cảm
nhận được bao điều kỳ thú.
Một số bài viết
của anh mang phong cách tản văn. Những bài viết này là tác phẩm văn xuôi ngắn gọn,
hàm xúc, giàu khả năng khơi gợi với kết cấu linh hoạt, kết hợp với các phương
thức, phương tiện biểu hiện nội dung, nghệ thuật đời sống theo kiểu chấm phá và
thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Những bài viết này thường đề cập đến những người
thực, việc thực mang tính thời sự đã giúp cho tôi và người đọc cảm nhận được
cái hay, cái đẹp của những sự việc, những con người bình thường nhưng đang góp
phần làm cho quê hương và cuộc sống này giàu đẹp hơn, tốt hơn. Và cũng chính đề
tài với lối viết theo phong cách này đã tạo nên sự đa dạng trong văn phong cũng
như cách thể hiện con người và cuộc sống trong tác phẩm của anh…
Cuối cùng tôi
không thể không nhắc tới bài viết “Kí ức tháng 5”, “Tháng Tư về gợi nhớ”, “Đất
nước vào thu”. Cá nhân tôi nghĩ đó không chỉ là tác phẩm văn xuôi mà còn là những
bài thơ: Đẹp và bay bổng, lãng mạn và hiện thực. Tác giả đã lựa chọn những chi
tiết, sự việc khắc họa được nét đặc sắc, tạo nên cái thần của thời điểm giao
mùa, cái thần của cảnh vật trong tháng 5 qua hình ảnh “chùm hoa phượng bùng nở
khát khao”, qua “cánh bằng lăng sắc tím”, “hương đưa dịu ngọt của hoa sen, hoa
ngọc lan”… Tất cả hòa vào những sự kiện trọng đại của dân tộc trong tháng
5 như Điện Biên Phủ, Bác Hồ… Trong đó có
cái riêng của một miền quê, của “anh”, của “em”. Tất cả đẹp như “công viên
Nguyên phi ỷ lan” trong một sáng tháng 5!
Tháng Tư về gợi
nhớ, Đất nước vào thu là hai áng văn đẹp được dệt nên từ tình yêu tuổi học trò,
từ tình yêu thời sinh viên thơ mộng, từ tình yêu đất nước đất nước say đắm, từ
lý tưởng sống cao cả của con người Kinh Bắc, những con người mang trong mình
“Khát vọng và lẽ sống” của cá nhân, của quê hương và của cả dân tộc. Nhân vật
sáng tạo trữ tình “tôi” và “em” có thể là tác giả, trong đó có cả tôi, bạn và cả
một lớp thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, những con người đã góp phần làm nên thời
đại Hồ Chí Minh mãi mãi đi vào lịch sử oanh liệt của dân tộc. “Tôi” và “em” có
một tình yêu riêng, rất riêng, đẹp như những làn điệu dân ca đằm thắm. Nhưng
“tôi” và “em” còn có một tình yêu lớn hơn, đó là tình yêu đất nước. “Tôi” và
“em” sẵn sàng hy sinh tình yêu của mình với tâm nguyện “Tất cả cho tiền tuyến…”
vì độc lập tự do của dân tộc. Và thực sự họ đã tạm gác lại tình yêu đi tới nơi”
biên cương xa xăm của Tổ quốc”, đã hy sinh ở Bộ Tư lệnh miềm Tây Nam Bộ. Thú thực,
khi đọc đến đoạn kết, tôi đã không cầm được nước mắt. Ba bài văn xuôi, bài thơ
trữ tình, ngọt ngào, có cả nỗi đau còn đó cứ bay bổng trong tâm trí tôi!
Xin cảm ơn
anh Nguyễn Tự Lập, một đồng đội đã sống, chiến đấu hết mình một thời hoa lửa, một
con người đã sống, làm việc và sáng tạo hết mình từ khi rời quân ngũ. Chúc anh
luôn mạnh khỏe, có nhiều niềm vui! Hy vọng một ngày gần đây anh sẽ cho ra mắt
thêm những đứa con tinh thần đem lại nhận thức, niềm vui thẩm mỹ cho đồng đội
và độc giả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét