Cảm nghĩ về Hàn Quốc và bán đảo Triều Tiên

Leave a Comment
Cảm nghĩ về Hàn Quốc và bán đảo Triều Tiên
Rời sân bay Nội Bài vào lúc 10h50 tối. Trên đường bay tới Seoul, tôi cứ suy nghĩ miên man. Nếu không có chuyến bay thứ hai tới Đại Hàn Dân quốc có lẽ tôi chỉ hiểu sơ sơ về Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (CHDCNDTT- Bắc Triều Tiên) và Đại Hàn Dân quốc (ĐHDQ- Hàn Quốc) từ năm 1945 đến nay. Đó là những kiến thức về lịch sử và quan hệ quốc tế mà tôi đã được học ở bậc sau đại học. Nói một cách tổng quát, hai miền Triều Tiên là sản phẩm của cuộc Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1950 đến năm 1953 hai miền đã nổ ra một cuộc chiến tranh. Ngày 26/5/1950 Bắc Triều Tiên phát động chiến tranh nhằm thống nhất đất nước, kéo theo một bên là liên quân Trung-Triều và một bên là liên quân Liên hợp quốc, chủ yếu là Mỹ- Hàn tham chiến. Ngày 27/7/1953 hai bên đã ký Hiệp định Đình chiến Triều Tiên. Đến năm 1991, hai miền chính thức gia nhập Liên hợp quốc và trở thành hai quốc gia độc lập phát triển theo hai con đường riêng: Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa.
Vì có chuyến đi này tôi mới dành thời gian tìm hiểu về tình hình Đông Bắc Á qua một số tài liệu tiếng Việt, tiếng Anh về CHDCNDTT và ĐHDQ (tôi đã trình bày một số vấn đề trong hai bài viết trước). Nói một cách vắn tắt, hệ thống quan hệ quốc tế hiện đại đã tạo ra hai nước Triều Tiên. Nhưng trong tâm thức người Triều Tiên, cũng giống như người Việt sau năm 1954, không thể một dân tộc mà có hai miền hai đất nước. Cả hai miền đều đã cố gắng theo cách riêng để thống nhất đất nước, dù các nước lớn “dàn xếp” chia tách họ thành hai quốc gia.
Theo tiếng Triều Tiên, từ Triều Tiên có nghĩa là buổi sáng tươi đẹp. Dân tộc Triều Tiên thuộc một trong những dân tộc thuần nhất, một trong những dân tộc có nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới. Con người từng có mặt trên bán đảo này từ thời kỳ đồ đã cũ. Họ sử dụng chung ngôn ngữ tiếng Triều Tiên, có hệ thống chữ viết đặc thù Hangul. Quốc gia Cổ Triều Tiên được thành lập năm 2333 trước Công nguyên. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, Triều Tiên đã xây dựng được một nhà nước thống nhất, độc lập. Cho đến khi Triều đại Triều Tiên (1392-1910) kết thúc, Triều Tiên trở thành thuộc địa của Nhật Bản.
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Triều Tiên có cơ hội trở thành một quốc gia thống nhất. Nhưng lịch sử hiện đại, hay nói chính xác toan tính của hai cường quốc Xô-Mỹ theo trật tự hai cực đã bất công đối với họ (giống như sự chia cắt giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức năm 1949, sự chia cắt giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa năm 1954). Trong 70 năm qua người Triều Tiên đã làm tất cả những gì cần làm để có một quốc gia thống nhất, giống như trong quá khứ họ đã từng làm chống lại phong kiến Trung Quốc, Nhật Bản, thoát khỏi ách đô hộ của Đế quốc Nhật sau hơn một thế kỷ. Nhưng giờ đây vĩ tuyến 38 vẫn là ranh giới chia cắt hai miền.
Tình hình bán đảo Triều Tiên hiện tại căng thẳng hơn bao giờ hết. Liệu có xảy ra một cuộc chiến thông thường hay một cuộc chiến hạt nhân? Hai miền Triều Tiên ngày hôm nay vẫn nằm trong toan tính lợi ích của chính quyền hai miền và bốn nước lớn Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản. Ngẫm kỹ tôi mới thấy thấm thía với lời giãi bày của một nhà nghiên cứu chính trị Hàn Quốc “Cái kỳ tích sông Hàn mà các bạn nói với chúng tôi, nếu so với kỳ tích thống nhất đất nước Việt Nam, về phương diện lịch sử, chính trị, văn hóa, cái nào mới đích thực là kỳ tích của một dân tộc”? Bao nhiêu năm nữa hai miền Triều Tiên mới thống nhất như Việt Nam và Cộng hòa Liên bang Đức? Và cái giá của nó sẽ như thế nào?
4h sáng theo giờ Việt Nam, máy bay hạ cánh xuống sân bay quốc tế Incheon, một sân bay hiện đại sầm uất và nhộn nhịp nhất châu Á. Trời đất vẫn còn tờ mờ. Nhìn ra xung quanh sương giăng mờ ảo. Chỉ thấy những dãy núi chạy dài xa xa. Bước vào cầu cảng, dọc theo chỉ dẫn đi đến các nước, tôi bắt đầu thấy hình ảnh của một Hàn Quốc thuộc nhóm G20 và sắp tới là nhóm D10, một cường quốc kinh tế thu nhỏ dần hiện ra.
Mặc dầu đã đọc một số bài viết trên Wikipedia và các tài liệu tham khảo trên các trang báo nhưng đó là những thông tin thuần thúy sách vở. Còn bây giờ tôi chứng kiến hình ảnh trực quan, sinh động khi vào trong cầu cảng. Hai bên lối đi thang máy là đường đi bộ trải thảm màu ghi. Hệ thống dich vụ chức năng, các cửa hàng choáng ngợp chạy dài tít tắp với hệ thống đèn đủ các mầu. Tôi bắt đầu có ấn tượng hiện thực về sự phát triển, sự hiện đại, sự náo nhiệt, sự phồn hoa và cả sự chu đáo tinh tế của người Hàn khi so sánh với hàng chục sân bay tôi đã đi qua.
Người ta nói với tôi trong thời gian chờ chuyển tiếp sang Mỹ, tôi có thể đăng ký vào nghỉ theo giờ ở khách sạn năm sao. Giá cả phải chăng. Có đầy đủ các dịch vụ giải trí, nghỉ ngơi; có người đánh thức và đưa đến tận quầy chuyển tiếp làm thủ tục đi đúng giờ, nhưng tôi không muốn lãng phí thời gian cho việc giải trí, ngủ nghỉ mặc dù rất muốn xem xem khách sạn năm sao Hàn Quốc như thế nào.
Tôi hỏi thăm một nhân viên tìm đến Bảo tàng Văn hóa Triều Tiên (The Museum of Korean Culture), cái tên không hề gợi lên hai đất nước Triều Tiên. Tôi lên thang máy tới tầng trên cùng của khu cầu cảng. Bên tay trái tôi là một bảo tàng xinh xắn, cửa gỗ màu cánh kiến đóng im lìm. 5h30 mới mở cửa. Tức là còn một tiếng nữa. Tôi định xuống một tiệm cà phê nào đó nhâm nhi ăn sáng để chờ đợi, chợt thấy bên phải cầu thang máy, bên trái bảo tàng có khoảng 20 chiếc giường nệm da sang trọng cho khách nằm nghỉ. Có ba bốn thanh niên nam nữ người nước ngoài đang ngủ. Tôi không thấy có một sân bay quốc tế nào tôi đã đi qua có cái dịch vụ tốt như thế này. Thật thoải mái khi nằm trên tấm nệm êm ái, ấm áp, miễn phí chợp mắt một lúc.
Ánh sáng chói lòa chiếu vào mặt khiến tôi tỉnh giấc. Tôi đã chợp được một tiếng rưỡi. Tôi vội vàng đánh răng rửa mặt và trở lại bảo tàng. Một cô gái ngồi trước một cái bàn nhỏ đứng dậy nói bằng tiếng Anh mời tôi vào. Lác đác một số người nước ngoài đang chăm chú theo dõi những hình ảnh, hiện vật ở bên trong. Bảo tàng không lớn như tôi hình dung, nhưng có đến bảy khu trưng bày hiện vật cùng hình ảnh minh họa bằng video kèm theo máy tính. Ngoài ra còn bốn phòng chuyên biệt trưng bày, giới thiệu nghệ thuật truyền thống, âm nhạc truyền thống, văn hóa hoàng gia và văn hóa in khắc.
Tôi xem khá kĩ từng khu, từng phòng. Những hình ảnh, hiện vật, âm thanh từ trong quá khứ hàng ngàn năm đầy sống động thức dậy bao trí tưởng tượng trong tôi. Những bản in khắc, những tác phẩm theo các thể loại, những bức tranh, hình ảnh những ngôi chùa cùng tượng phật, những hiện vật đồ gốm, đồ kim loại, đồ dùng, sinh hoạt của tầng lớp hoàng gia đến tiện dân, những kiểu quần áo, trang trí hoa văn, những công trình kiến trúc điêu khắc, những di sản về văn hóa nghệ thuật cứ lôi cuốn hấp dẫn tôi. Đúng là một kho tàng trí tuệ, nhân văn, đem lại cho người xem những giờ phút thật tuyệt vời.
Không biết điều gì đã làm tôi rung động đến như vậy ở cái đất nước xa xôi này. Nhất là khi tôi nhìn vào hàng chục cuốn sách dày cộp, những công trình về khảo cổ, văn hóa Triều Tiên. Tôi lướt qua đề mục một vài cuốn. Chốc chốc lại nhìn đồng hồ xem đến giờ đi chưa. Tôi ước tại sao thời gian chuyển tiếp không phải là mười tiếng hay là nửa ngày. Thật là tiếc. Chắc đoán được tâm trạng tôi, cô gái Hàn Quốc tủm tỉm cười, đến bên cạnh đưa cho tôi một tập sách giới thiệu về văn hóa Triều tiên để tôi có thể xem trên máy bay. Phải chăng đó là sự tương đồng về lịch sử văn hóa lâu đời giữa hai dân tộc Việt-Triều; cả hai đều chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung hoa, nhất là về đạo Khổng, đạo Phật cùng với số phận bi hùng của các cuộc chiến tranh từ phương Bắc, phương Tây.
Không chỉ vì đồng châu, đồng chủng, đồng văn, tôi chợt nghĩ tới dòng họ Lý ở Việt Nam, khi nhà Trần đoạt quyền lực bằng một cuộc chuyển giao ngoạn mục nhưng cũng vô cùng đẫm máu, một bộ phận trong hoàng tộc họ Lý đã chạy sang đất nước buổi sáng tươi đẹp này để sinh tồn vào năm 1226, để rồi đầu những năm 2000, đại diện cho chi tộc họ Lý ở Hàn Quốc mang gia phả về nhận lại tổ tiên trong một ngày hội ở đền Lý Bát đế tại xứ kinh Bắc Việt Nam. Thật là một câu chuyện dài đầy bất ngờ và cảm động.
Tôi cũng chợt nghĩ đến một nhà trí thức xứ Kim Chi quỳ xuống để cầu xin người dân Bình Định ở Việt Nam tha thứ cho những hành động man rợ của binh lính Hàn Quốc trong các vụ thảm sát hơn năm mươi năm trước; một tượng đài ở Hàn Quốc sắp được dựng lên để ghi nhớ những tội ác đáng hổ thẹn trong quá khứ của họ. Và cho đến ngày hôm nay, hàng trăm ngàn cô dâu đất Việt, vì những lí do lịch sử, kinh tế đã đến làm dâu đất Hàn. Có những số phận bi thảm, nhưng đại đa số những người phụ nữ đó đã tìm được hạnh phúc nơi đất khách quê người. Cũng có lẽ vì thế tôi có thiện cảm với người Triều Tiên chăng.
Thêm vào đấy, Hàn quốc đã trở thành nhà đầu tư hàng đầu ở Việt Nam. Tôi sẽ trình bày một bài viết về đầu tư của ĐHDQ vào Việt Nam và quan hệ thương mại giữa hai nước cũng như quan hệ của Việt Nam với CHDCND Triều Tiên trong những bài viết sau. Hàn Quốc cũng là nhà cung cấp viện trợ lớn cho Việt Nam. Hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn ODA đã góp phần không nhỏ cho sự phát triển của Việt Nam. Họ thuộc về đẳng cấp cao hơn so với các tập đoàn kinh tế, thương mại Trung Quốc đầu tư vào Việt Nam…
Từ năm 1950 đến nay, đương nhiên Hàn Quốc và Bắc Triều Tiên vẫn là hai nhà nước thù địch lẫn nhau vì cái ý thức hệ. Nhưng sau khi Việt Nam thống nhất, sau khi nước Đức thống nhất, và đặc biệt sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc người Triều Tiên có động lực để tìm một con đường cho hai miền. Quan hệ hai miền bắt đầu được cải thiện. Sự cải thiện này chủ động thuộc về ĐHDQ. Đáng lưu ý nhất là Chính sách Ánh dương, chính sách ngoại giao Hàn Quốc thực thi từ năm 1988 do Tổng thống Kim Dae Jung đề xướng. Ông đã được giải thưởng Nobel về hòa bình năm 2000. Chính sách Ánh Dương đã đưa đến sự hợp tác chính trị to lớn trong lịch sử quan hệ liên Triều. Hai cuộc họp thượng đỉnh liên Triều diễn ra tại Bình Nhưỡng tháng 6/2000 và tháng 10/2007 đã đem lại một số dự án kinh tế thu hút sự chú ý của dư luận quốc tế, cùng với kết quả những cuộc gặp mặt ngắn ngủi đầy nước mắt của những gia đình Triều Tiên li tán hơn sáu mươi năm sau chiến tranh.
Chính sách Ánh dương dựa trên ba nguyên tắc: i, Không khiêu khích quân sự; ii, Miền Nam sẽ không cố gắng thu hút miền Bắc bằng bất cứ cách nào; iii, Miền Nam chủ động tìm kiếm sự hợp tác. Chính sách này gửi đi một thông điệp là Hàn Quốc không mong muốn thôn tính hoặc ngầm phá hoại Bắc Triều Tiên. Mục tiêu là cùng chung sống hòa bình, thúc đẩy đối thoại, hợp tác tiến tới hòa giải và thống nhất hai miền Triều Tiên. Lộ trình con đường tươi đẹp này sẽ đi qua ba giai đoạn: 1, Hai miền thành lập một nhà nước liên bang; 2, Liên bang bao gồm chính quyền tự trị của hai miền; 3, Hai miền có thể chọn hai phương thức thành lập chính quyền trung ương và tự trị.
Rất đáng tiếc là hai miền có quá nhiều nghi kị, đặc biệt là phía CHDCNN Triều Tiên, phía cảm thấy yếu thế đã không tận dụng được cơ hội này để đáp ứng lòng mong mỏi của người dân hai miền. Có ý kiến cho rằng, phía Bắc Triều Tiên chỉ lợi dụng tình cảm của người dân hai miền, tranh thủ nguồn viện trợ của Hàn Quốc và quốc tế, lấy viện trợ để phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt và đầu tư vào quốc phòng. Có ý kiến cho rằng trở ngại lớn nhất là 38.000 quân Mỹ đóng ở Hàn Quốc và chính sách thù địch của Mỹ. Có ý kiến cho rằng đứng đằng sau là Trung Quốc, nước viện trợ lớn nhất cho Bắc Triều Tiên tìm mọi cách cản trở, dùng Triều Tiên để mặc cả với Mỹ về những vấn đề lợi ích của họ… Và chính sách Ánh dương đã tắt ngấm.
Dường như phía Hàn Quốc hiểu được nguyên nhân chính sách Ánh dương của họ thất bại. Tuy nhiên Seoul vẫn kiên trì đề ra chính sách ngoại giao Xây dựng niềm tin ở Đông Á. Một mặt Seoul vẫn thắt chặt liên minh với Mỹ, một mặt họ thực hiện chính sách xây dựng niềm tin nhằm cải thiện và duy trì sự ổn định quan hệ với Bắc Triều Tiên, Trung Quốc và Nhật Bản. Seoul xây dựng niềm tin với Bình Nhưỡng nhằm ngăn chặn nguy cơ hạt nhân và thúc đẩy hòa bình, ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Họ nhìn vấn đề xa hơn là phải thúc đẩy Sáng kiến hòa bình và hợp tác ở Đông Bắc Á để tạo ra sự tin tưởng, thúc đẩy hợp tác Trung-Nhật-Hàn làm động lực. Đi xa hơn nữa là tăng cường quan hệ với các nước thành viên ASEAN, Ấn Độ và châu Âu để thúc đẩy kinh tế cũng như về chính trị trong việc giải quyết vấn đề hạt nhân của Bắc Triều Tiên. Họ hiểu rằng không thể có một bán đảo Triều Tiên hòa bình, thống nhất mà không có sự ủng hộ của Trung Quốc. Nhưng họ đã lầm. Trung Quốc thực chất không làm được cái điều như Hàn Quốc từng mong đợi, ngoài việc họ muốn duy trì tình trạng chia cắt bán đảo Triều Tiên.
Cho đến nay, người Hàn không thấy có sự thay đổi nào trong quan hệ với Bắc Triều Tiên. Còn đối với Nhật Bản, giữa hai nước vẫn nguội lạnh vì vấn đề lịch sử và tranh chấp lãnh thổ. Quan hệ với Trung Quốc có nồng ấm nhưng vẫn xung đột hợp tác an ninh chính trị, đến nỗi Chính phủ Hàn Quốc phải triệu đại sứ Trung Quốc tới chất vấn, gửi công hàm yêu cầu phía Trung Quốc giải thích rõ phát ngôn của người đại diện cho Đại sứ quán ở Seoul về vấn đề triển khai hệ thống tên lửa THAAD có phải là quan điểm của Chính phủ Trung Quốc hay không.
Hàn Quốc từ trước đến nay vẫn tranh thủ sự ủng hộ của Mỹ, chấp nhận quân đội Mỹ đóng trên lãnh thổ, nhận sự bảo hộ an ninh của Mỹ và chấp nhận sự triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa tầm cao giai đoạn cuối THAAD. Bao nhiêu năm qua chính sách đối ngoại của Hàn Quốc là dựa trên nền tảng liên minh quân sự Mỹ Hàn để bảo vệ chủ quyền và phát triển đất nước. Mặc dù thương mại với Trung Quốc đã vượt Mỹ, nhưng họ tin Mỹ chứ không tin Trung Quốc. Thực tế họ đã vươn lên trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại, tiên tiến, thịnh vượng hàng đầu châu Á. Cũng như Nhật Bản, không một nhà quan sát quốc tế nào hoài nghi về chủ nghĩa dân tộc và bản sắc riêng của xứ Cao Ly.
Dân tộc Triều Tiên là một trong những dân tộc có bản sắc. Sức mạnh của một dân tộc thường được đánh giá qua bốn yếu tố. Một là chế độ chính trị xã hội. Hai là chủ quyền quốc gia. Ba là cộng đồng dân tộc. Bốn là văn hóa dân tộc. Trong đó yếu tố cộng đồng dân tộc và văn hóa dân tộc là nền tảng tạo nên bản sắc của một dân tộc. Trên bước đường lịch sử, dân tộc Triều Tiên, cũng như các dân tộc khác có con đường đi riêng của mình. Họ không có tham vọng bành trướng lãnh thổ, không đi xâm lược hoặc chinh phục các dân tộc khác.
Do có vị trí địa chính trị rất quan trọng, giống như dân tộc Việt, họ luôn bị các thế lực ngoại xâm dòm ngó và xâm lược. Tuy diễn tiến qua thời gian có lúc thăng có lúc trầm, nhưng họ luôn giữ gìn được sự thống nhất đất nước. Ở mỗi khúc quanh của lịch sử, người Triều Tiên đều thể hiện được bản lĩnh, trí tuệ, nghị lực để vươn lên trong nhiều lĩnh vực. Tôi tin rằng với truyền thống dựng nước, giữ nước kiên cường, với một nền văn hóa rực rỡ, người Triều Tiên biết mình phải làm gì để xứng đáng với lịch sử của họ.
Thanh Vũ, Phạm Lý và 35 người khác
26 bình luận
2 lượt chia sẻ
Thích
Bình luận
Chia sẻ

 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Blog Archive

About this blog

Được tạo bởi Blogger.