Hôm nay Thúy đưa tôi đi
thăm College of Education, ngôi trường mà hai chi em Thúy, Vân đã và đang học tập.
College of Education là một trong gần chục college của MU: Đại học Nghệ thuật
và Khoa học (College of Arts & Science), Đại học Kinh doanh (College of
Business), Đại học Kĩ thuật (College of Engineering), Đại học Khoa học Môi trường
Nhân văn (College of Human Environmental Sciences), Đại học Thú y (College of
Veterinery Medicine)…
College of Education
thành lập năm 1868 theo quyết định của chính quyền bang với phương châm đào tạo
giáo viên là chức năng quan trọng nhất của bất kì trường trường đại học nào
trong bang. Đến nay nhà trường vừa kỉ niệm
145 năm ngày sinh của mình. Nhà trường vẫn tiếp tục thực hiên theo phương châm
đề ra từ buổi đầu và cụ thể hóa thêm những giá trị cốt lõi của mình: Đảm bảo chất
lượng đào tạo hàng đầu, phát huy tính sáng tạo và đổi mới, lấy sinh viên làm
trung tâm, phát triển sự đa dạng văn hóa, phấn đấu vì mục tiêu và nhu cầu của
xã hội. Nhà trường đã đào tạo được trên 47.000 cán bộ, giáo viên có trình độ đại
học, hàng nghìn cán bộ giáo viên có trình độ thạc sĩ và tiến sĩ. Nhà trường
không chỉ đào tạo đội ngũ cán bộ giáo viên cho bang, liên bang mà còn đào tạo
cán bộ giáo viên đẳng cấp quốc tế cho nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác. Năm
2012 trường được US. New & World Report của Mỹ xếp thứ 58 trong tổng số tất
cả các trường đại học trong toàn liên bang. Riêng Khoa Tâm lí, Tư vấn, Trường học
được xếp thứ 2. Khoa Lãnh đạo và Hoạch định chính sách xếp thư 17.
College of education chia thành 5 ban: Ban
Lãnh đạo và Hoạch định chính sách, Ban Tâm lí Giáo dục, Ban Dạy - Học và Chương
trình, Ban Giáo dục Đặc biệt, Ban Kĩ thuật và Thông tin. Các ban lại được chia
ra những khoa khác nhau. Chẳng hạn như Ban Dạy - Học và Chương trình chia ra
các khoa: Ngôn ngữ và Văn hóa, Toán học, Khoa học, Nghiên cứu xã hội. Ban Tâm
lí chia ra các khoa: Tâm lí Giáo dục, Tâm lí Trường học, Tâm lí Tư vấn. Trong
các khoa lại chia ra các lớp khác nhau. Ví dụ như Khoa ngôn ngữ và Văn hóa chia
ra các lóp: Lớp Giáo dục Nghệ thuật, Lớp giáo dục Âm nhạc, Lớp Kinh doanh và
Maketing, Lớp Mầm non…
Khu College of
Education còn gọi là khu Townsend bao gồm ba khối nhà 3 tầng liền kề nhau. Ở
trung tâm giáp với đại lộ là tòa nhà Townsend Hall. Tiếp bên cạnh là Tòa
nhà High School và Tòa nhà Elementary
School nằm sâu ở phía trong. Thúy dẫn tôi đi thăm phòng giám hiệu, văn phòng,
các phòng học. Điều tôi quan tâm nhất là phòng học. Phòng nào cũng thoáng rộng.
Phòng nào cũng đầy đủ thiết bị như máy chiếu, máy tính, bảng thông minh. Bàn học
thường là bàn tròn, có các ổ cắm máy tính cá nhân cho sinh viên. Nhiều phòng
sinh viên đang học, đang thảo luận. Nhưng tất cả đều đóng kín cửa, không một tiếng
động phát ra ngoài.
Sự im lặng đến kì lạ
khiến tôi bỗng nhớ đến tứ thơ trong bài thơ Âm thanh im lặng của Vũ Quần
Phương. Tôi đọc bài thơ này từ thời bom đạn chiến tranh. Cái khoảng thời gian
im lặng một thời của người lính là những hoài niệm, sự chuẩn bị, sự chờ đợi, sự
căng thẳng, sự dồn nén đến tột độ để rồi bùng phát cho cái âm thanh dữ dội của
cái sống chết, cái thắng thua. Còn cái im lặng tôi thấy ở đây chỉ gợi cho tôi
những hoài niệm đẹp đẽ gắn liền với những mơ ước tuổi trẻ; cái thời là một giáo
sinh với những tháng ngày chập chững đi thực tập làm thầy giáo rồi bước vào nghề
dạy học; những lớp hoc sinh xa gần lại hiện về trong tôi.
Nghề dạy học được cho
là nghề cao quý vì đã đem kiến thức, đem văn hóa của nhân loại truyền cho thế hệ
trẻ với tất cả trái tim và tâm hồn con người. Sản phẩm của người thầy là con
người vì vậy người thầy phải thật sự yêu người, yêu nghề. Không bao lâu nữa, những
giáo sinh đang ở trong những căn phòng tôi đi qua sẽ ra trường. Họ sẽ bước vào
đời như tôi đã trải qua với bao niềm say mê sáng tạo, với cả những ngọt ngào lẫn
vấp váp đắng cay. Song dòng đời vốn là như vậy. Mong rằng trong số họ không ai
phải trải qua cái khoảng thời gian im lặng của bất kì cuộc chiến nào, ở bất kì
nơi đâu trong cái thế giới đầy bất ổn này.
Thúy đưa tôi lên phòng
làm việc của mình cách đây bốn năm khi còn là sinh viên cao học. Khi chúng tôi
gõ cửa bước vào phòng, tất cả mọi người reo lên, đứng dậy đón Thúy như đón người
thân đi xa lâu ngày trở về. Có bốn người trong phòng, người nào người nấy đều ở
độ tuổi bốn mươi. Họ xúm quanh Thúy hỏi thăm tình hình sức khỏe, gia đình, con
cái, học hành. Một cô dắt Lâm đi chơi loanh quanh. Sau khi ra về tôi mới biết
cô này vào làm thay Thúy. Tôi rất tiếc vì đã chuẩn bị mấy hộp bánh đậu xanh cho
buổi gặp mặt ở khoa, nhân tiện có đôi lời cảm ơn, vậy mà lại bỏ quên mất ở
phòng. Đây là văn phòng đào tạo khoa sau đại học của College of Education. Thúy
làm việc part time trong căn phòng này ba năm nên được miễn toàn bộ học phí và
các khoản đóng góp theo quy định. Mỗi tháng lại được nhận thêm 1200 đô sinh hoạt
phí. Cũng nhờ làm việc tại đây, tích lũy được chút kinh nghiệm, nên sau khi xây
dưng gia đình, theo chồng về bang Arkansas, Thúy xin được làm trợ giảng và tiếp
tục theo học tiến sĩ tại Trường Đại học Arkansas.
Khoảng gần một tiếng trò
chuyện, chúng tôi chia tay mọi người và lưu luyến bước ra khỏi căn phòng. Tôi cầm
theo một số tài liệu giới thiệu về trường, về khoa. Chúng tôi đi xuống tầng dưới,
Thúy chỉ cho tôi phòng làm việc của Vân trong thời gian sắp tới. Đó là phòng
602, văn phòng Khoa Lãnh đạo và Hoạch định Chính sách Giáo dục phổ thông. Tôi rất
mừng cho Vân vì đã được xét học bổng học tiếp tiến sĩ. Mỗi tháng làm việc part
time tại văn phòng khoa Vân được cấp 1500 đô sinh hoạt phí, cộng với trợ cấp của
Giang 1700 đô một tháng, nếu phải gửi con đi nhà trẻ 1000 đô một tháng, chắc
trong những năm tới, hai đứa không phải lo lắng gì về chuyện tiền nong.
Tiếp theo Thúy dẫn tôi
đi thăm thư viện của College of Education. Thư viên này bao gồm hai phòng, vừa
là phòng đọc vừa là phòng để sách báo băng đĩa chuyên về giáo dục. Mỗi phòng
áng chừng khoảng mười giá sách cao ngang đầu người. Xung quanh phòng có khoảng
trống để bàn đọc sách. Phía trái áp tường của mỗi tầng đặt rải rác hàng chục
máy tính nối mạng phục vụ cán bộ giáo viên, sinh viên ngồi đọc và tham khảo tài
liệu. Tôi xem lướt qua các đầu sách. Có cả một số sách in lại liên quan đến
giáo dục từ thời Hy – La cổ đại và từ thời khai sáng; một số sách nguyên bản có
từ thế 18, 19 và đầu thế kỷ 20. Theo sự hướng dẫn của người phụ trách thư viện,
tôi ngồi vào bàn máy tính thử tra cứu và xem những tiết dạy giới thiệu phương
pháp dạy học và giáo dục các cấp học ở Mỹ, ở các nước Bắc Âu, Đức, Pháp, Nhật…
Liên hệ với trường Đại
học Sư phạm, Đại học Giáo dục, những cỗ máy cái đào tạo giáo viên ở Việt Nam,
trường thì có lịch sử lâu đời nhất mới 60 năm, lại trong điều kiện gần 30 năm
chiến tranh; trường thì mới thành lập được khoảng 5 năm, tôi hiểu chúng ta thực
sự mới đang trong giai đoạn tập vận hành và chập chững những bước đi ban đầu
nên thư viện còn quá nghèo nàn lạc hậu để so sánh với họ.
Chúng tôi mất khá nhiều
thời gian chụp ảnh lưu niệm ở College of Education trước khi đến Trường Đại học
Báo chí Missouri (Missouri School of Journalnism). Sở dĩ tôi chọn trường này để
đến thăm là vì cháu tôi mới tốt nghiệp thạc sĩ khoa báo chí, hiện đang công tác
tại đài truyền hình Việt Nam. Cháu có ý
định theo học tiếp tại trường này. Tôi muốn biết một vài thực tế về trường để
khi về, động viên cháu sang học trong một vài năm tới. Missouri School of
Journalism là một trong nhiều school của Trường Đại học Mssouri. Đó là Trường Đại
hoc Y (School of Health Professions),
Trường Đại học Luật (School of Law), Trường Đại học Dược (School of Medicine),
Trường Đại học Điều dưỡng (School of Nursing)…
Missouri School of
Journalism là trường báo chí đầu tiên trên thế giới. Trường được Walter Williams, Tổng biên tập Tờ Columbia
Herald thành lập năm 1908 tại khuôn viên của Trường Đại học Missouri với sự
giúp đỡ của chính quyền bang và cá nhân Joseph Pulizer. Ngày thành lập trường
cũng là ngày xuất bản nhật báo University Missourian. Tờ báo này là nơi thực
hành cho sinh viên trong suốt thế kỷ qua. Ngày nay, nhà trường được xếp là một
trong những trường báo chí hàng đầu thế giới. Với phương pháp Missouri, sinh
viên học về báo chí không những học qua bài giảng và thảo luận mà còn thực hành
những kiến thức đó tại tờ nhật báo Columbia Missourian của trường báo chí phát
hành. Ngoài ra, sinh viên còn được làm việc tại hai tạp chí văn hóa, một tạp
chí quốc tế cũng của trường; một kênh radio công công quốc gia và một đài truyền
hình thương mại duy nhất thuộc một trường đại học trên toàn Hoa Kỳ.
Trường có bề dày thành
tích gần như không trường nào trên thế giới theo kịp. Năm 1910 trường bắt đầu
khai trương “Tuần lễ báo chí ”. Năm 1921 trường đào tạo chương trình thạc sĩ
báo chí đầu tiên trên thế giới. Năm 1930 trường trao tặng huân chương danh dự
Missouri cho những dịch vụ báo chí xuất sắc của liên bang. Năm 1934 trường đào
tạo tiến sĩ báo chí đầu tiên trên thế giới. Năm 1936 trường bắt đầu tổ chức những
khóa học qua đài truyền hình kênh KFRU. Năm 1958 trường mở Trung tâm Tự do
thông tin và Học thuật đầu tiên trên thế giới về đề tài này. Năm 1971 trường chuyển
kênh radio của mình cho phòng thực nghiệp của khoa. Năm 1981 trường được xếp hạng
là trường báo chí đứng đầu Hoa Kỳ. Năm 2007 trường thành lập Viện Báo chí Donal
W. Reynold để bắt đầu các khóa học nâng cao nghiệp vụ báo chí trong xã hội dân
chủ. Quỹ Donal W. Reynold đã trao tặng cho nhà trường 31 triệu USD nhằm xây dựng
viện trở thành một trong những viện báo chí đứng đầu quốc gia.
Missouri Shool of
Journalism có sáu chương trình đào tạo cho sinh viên: Quảng cáo chiến lược
thông tin, Viết báo và Tạp chí, Hội tụ Truyền thông đại chúng, In ấn và Tin Điện
tử, Báo ảnh, Báo hình và Báo nói. Chương trình đào tạo thạc sĩ bao gồm học tại
trường và học qua mạng. Ngoài ra trường còn có các chương trình đào tạo từ xa tổ
chức tại các thành phố Jefferson, Missouri, London, New York, Washington DC.
Trường cũng tổ chức hợp tác thành lập 12 chương trình đào tạo với 9 quốc gia
trên thế giới.
Thúy dẫn tôi cưỡi ngựa
xem hoa qua 7 tòa nhà của Missouri School of Journalism. Đã gần trưa, tôi chỉ
có thời gian để lướt nhìn các phòng: Phòng tin in ấn các ấn phẩm báo chí, Phòng
thực nghiệm thiết kế công nghệ cao, Thính phòng nghe nhìn nghệ thuật, Phòng báo
ảnh điện tử, Phòng máy tính hiện đại sản xuất tài liệu video, audio và text. Tổng
số có tới 500 máy tính kèm theo thiết bị các loại phục cán bộ, giáo viên, sinh
viên học tập và làm việc. Tôi chỉ đi dạo qua Đài truyền hình thương mại, Đài
phát thanh công cộng, Thư viện báo chí (50.000đầu sách, 167 tạp chí xuất bản định
kỳ, 41 nhật báo trong nước, 18 đầu báo quốc tế), Viện Báo chí.
Riêng đến Viện Báo chí,
tôi và Thúy dừng lại nhìn vào sơ đồ, không thể tiếp tục đi được nữa. Viện Báo
chí bao gồm Trung tâm trình diễn công nghệ, Thư viện báo chí mới, Trung tâm
biên tập đa phương tiện, Phòng làm việc nhóm, Phòng chuyên đề và diễn đàn, Hội
trường trình diễn những sự kiện công cộng, Phòng tiếp công chúng và khu vực triển
lãm…
Trên đường về nhà Vân,
bao nhiêu cảm xúc đan xen trong tôi. Mới chỉ nhìn tổng thể và tham quan hai trường
thành viên của Đại học Missouri, tôi đã nhận ra bao vấn đề mà các trường đại học
của Việt Nam chưa làm được. Đó là truyền thống, là giá trị, là bản sắc văn hóa
của một trường đại học. Sau này có dịp tìm hiểu sâu hơn về nhà trường tôi càng
thấy rõ cái hiện hữu mà người ta cho là phi vật thể đó. Nó nằm ở kiến trúc xây
dựng của nhà trường. Nó ẩn trong khung cảnh, không khí chung của nhà trường. Nó
hiển hiện trong phong cách của ban lãnh đạo, của cán bộ giáo viên, nhân viên.
Nó thể hiện trong ý thức học tập, thái độ ứng xử của sinh viên. Nó khác với những
trường đại học như Thanh Hoa của Trung Quôc, Chulalongcon của Thái Lan, Học viện
Quản lý Quốc gia của Singapore. Nó cũng khác ngay cả với các trường đại học
khác của Mỹ như Texas – Austin, Arkansas, Colorado…
Thăm Đại học Missouri, tôi
biết dù trường không được xếp trong top đứng đầu của Mỹ, nhưng nó vẫn sở hữu một
thương hiệu mà ngay cả những trường nổi tiếng nhất cũng chưa có được. Chẳng hạn
như phương pháp Missouri, một phương pháp học, thực hành, làm việc và nghiên cứu
từ thực tế từ công việc. Phương pháp Misouri bắt nguồn từ trường báo chí nhưng lan tỏa khắp
các trường trực thuộc và các khoa. Nó trở thành nội dung, phương pháp dạy - học
đặc trưng của nhà trường.
Tôi quen biết một người
bạn của Vân học ở Đại học Nông nghiệp, Thực phẩm và Tài nguyên của Đại học Missouri.
Hai năm trước khi còn ở chung phòng với Vân. Thỉnh thoảng tôi muốn gặp (qua
ipad) để hỏi han tìm hiều việc học hành của sinh viên khoa trồng trọt như thế
nào. Vân nói với tôi chỉ có thể gặp được vào ngày nghỉ vì “bạn ấy” sáng đi học,
sau đó ra cánh đồng hoặc đi cơ sở gieo trồng, làm việc thực tế như một nông dân
đến tối mới về. Quần áo thì bê bết, lấm lem; không kịp ăn uống lao ngay vào
phòng tắm; mệt quá nhiều hôm đi ngủ ngay. Chị em cùng phòng mà có khi mấy ngày
trời mới gặp mặt nhau. Khi gặp tôi trên mạng, bạn của Vân ca thán “cực quá trời.
Thế mới biết học ở trong nước vô cùng nhàn hạ và sung sướng”. Triết lý của
phương pháp Missouri là học để làm việc, để sáng tạo. Và cuối khóa học, bằng cấp
chỉ trao cho sinh viên nào biết học để làm việc và sáng tạo, chứ không trao cho
sinh viên chỉ biết học thuần thúy để lấy bằng.
Cơ sở vật chất của nhà
trường theo đúng nghĩa của nó là nguồn lực giáo dục. Hàng trăm trang web chuyên
nghiệp, phong phú và đa dạng từ cấp trường, trường trực thuộc, khoa đến từng lớp,
các phòng ban, các phòng chức năng, thậm chí đến tổ chức chỉ có một nhóm người,
tất cả đều phủ sóng wifi khắp khuôn viên. Bước chân vào trường, ở bất cứ đâu
người ta cũng có thể bắt đầu làm việc được. Từ giảng đường, phòng thí nghiệm,
thư viện đến phòng ăn uống giải khát, thể thao, giải trí, tất cả đều vì quyền lợi
của sinh viên, đều mang tính chất học thuật; Từ các thiết bị máy móc phục vụ dạy
học đến môi trường thực hành, nghiên cứu đều khuyến khích sinh viên làm việc,
khám phá, sáng tạo; Từ bảng nội quy, quy định đến quyển sách hướng dẫn các loại
đều khiến sinh viên phải có ý thức trách nhiệm, phải tôn trọng chính bản thân
mình và người khác. Tất cả đều toát lên một thứ văn hóa của riêng Trường Đại học
Missouri. Càng đi sâu tìm hiểu tôi càng ngỡ ngàng, ngỡ ngàng đến choáng ngợp
trước truyền thống và sức hấp dẫn bên trong, bên ngoài của ngôi trường này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét